Việt Nam Học-Văn Hóa Du Lịch
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Việt Nam Học-Văn Hóa Du Lịch

Việt Nam Học-Văn Hóa Du Lịch
 
Trang ChínhLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập

 

 [size=18]LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ THỜI THƯỢNG CỔ ĐẾN HIỆN ĐẠI (tt) 8[/size]

Go down 
Tác giảThông điệp
pham_vanhanh_051188
Admin
pham_vanhanh_051188


Tổng số bài gửi : 51
Join date : 10/11/2009
Age : 35

[size=18]LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ THỜI THƯỢNG CỔ ĐẾN HIỆN ĐẠI (tt) 8[/size] Empty
Bài gửiTiêu đề: [size=18]LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ THỜI THƯỢNG CỔ ĐẾN HIỆN ĐẠI (tt) 8[/size]   [size=18]LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ THỜI THƯỢNG CỔ ĐẾN HIỆN ĐẠI (tt) 8[/size] EmptyFri Dec 18, 2009 4:20 pm

THỜI CẬN ĐẠI 1958 -1945Giai đoạn trước thế chiến thứ nhất
Biên niên
• 1858: Quân Pháp đánh vào Đà Nẵng
• 1859: Quân Pháp đánh vào Cần Giờ, phá thành Gia Định, Nguyễn Tri Phương xây đại đồn Chí Hòa.
• 1861: Đồn Chí Hòa thất thủ
• 1862: Quân Pháp đánh Mỹ Tho, Biên Hòa. Hiệp ước nhường ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ (Biên Hòa, Gia Định, Định Tường).Các cuộc kháng chiến của Trương Định, Võ Duy Dương. Triều đình cử phái đoàn đi chuộc đất
• 1867: Quân Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây. Phan Thanh Giản uống thuốc độc tự tử. Khởi nghĩa của Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Hữu Huân. Những đề nghị canh tân.
• 1873: Pháp đánh chiếm Hà Nội. J.Dupuis và F.Garnier. Nguyễn Tri Phương tử tiết F.Garnier bị giết ở Cầu Giấy, Hòa ước Giáp Tuất 1874.
• 1882: Henri Rivièra chiếm Hà Nội. Hoàng Diệu tử tiết. H.Rivière bị giết ở Cầu Giấy
• 1883: Quân Pháo tấn công Thuận An. Vua Tự Đức mất
• 1884: Hiệp ước Giáp thân. Vua Hàm Nghi xuất bôn.
I. Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam
A. Nam kỳ bị rơi vào tay thực dân Pháp
1. Giai đoạn ban đầu của cuộc xâm lược
Trước khi cho quân đi đánh phá Đà Nẵng vào năm 1858, nước Pháp đã là một đế quốc hùng mạnh có nhiều thuộc địa rải rác ở nhiều nơi, ở châu Mỹ có Martinique, Dominique..., ở châu Phi có Sénégal, Saint Louis, Tahiti, Algérie... Còn ở châu á thì chỉ mới lấy được một số thành phố hải cảng và Calédonie.
Sau khi lấy Calédonie vào năm 1853, Pháp thực sự tiến hành cuộc xâm chiếm Việt Nam.
Vào ngày 31/8/1858, lấy cớ phản đối chính sách cấm đạo của triều đình Huế, liên quân Pháp-Tây Ban Nha nổ súng bắn phá hải cảng Đà Nẵng để tiến tới tấn công kinh thành Phú Xuân. Quân triều đình chống trả kịch liệt, làm cho Đô đốc của quân Pháp là Rigault de Genouilly thay đổi kế hoạch, đưa quân vào đánh cửa Cần Giờ. Quân Pháp triệt hạ lần lượt 2 đồn từ Cần Giờ đến Gia Định, và ngày 17/2/1859 thì công phá thành Gia Định. Quân Nguyễn bị thua to, quan Đốc thần Vũ Ninh Duy và án sát Lê Từ tự vẫn, quân lính tháo chạy. Gia Định thất thủ. trong dịp này quân Pháp cho mìn giật sập thành Gia Định.
Nguyễn Tri Phương được triều đình cử vào phụ trách mặt trận này. ông cho đắp đại đồn Chí Hòa dài 3000m, ngang 1000m, cao 3m5 để chống giữ với quân Pháp. Trong thời gian này, phía Pháp có sự thay đổi. Đô đốc Charner sang thay R. de Genouilly chỉ huy toán quân viễn chinh.
2. Mất ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ
Ngày 23/2/1861, quân Pháp công phá đại đồn Chí Hòa, gặp sự kháng cự quyết liệt của quân Nguyễn. Sau hai ngày chiến sự ác liệt, quân Nguyễn bị tổn thất nặng. Nguyễn Tri Phương bị thương, còn em là Nguyễn Duy thì tử trận. Quân Nguyễn phải bỏ đại đồn Chí Hòa, rút về Biên Hòa.
Sau khi phá được đại đồn Chí Hòa, quân Pháp chiếm đánh lấy Định Tường (Mỹ Tho), đặt đồn lũy khắp nơi để kiểm soát. Tướng Bonnard sang thay Charner, triển khai việc đánh chiếm Biên Hòa (1861) và Vĩnh Long (1862). Triều đình Huế cử phái bộ do Phan Thanh Giản cầm đầu vào nghị hòa cùng Bonnard và ký hiệp ước Nhâm Tuất (1862) nhường ba tỉnh miền Đông cho Pháp.
3. Bước đầu của phong trào chống Pháp
Trong khi triều đình Huế nhường từng bước trước quân Pháp và sau đó là cắt đất cho Pháp thì phong trào chống Pháp nổi dậy mạnh mẽ trong dân chúng. tiêu biểu của buổi khởi đầu chống Pháp là cuộc khởi nghĩa của Trương Định và Võ Duy Dương.
Trương Đ5inh (1820-1864) làm Phó lãnh binh tại Gia Định. Năm 1861, sau thất bại của quân Nguyễn ở đại đồn Chí Hòa, Trương Định kéo quân về Gò Công, xây dựng căn cứ, quy tập những người yêu nước cùng đứng lên chống Pháp. Cuộc khởi nghĩa nổ ra trước khi Triều đình Huế chịu ký nhường ba tỉnh miền Đông cho Pháp. Từ Gò Công, phong trào chống Pháp lan rộng ra khắp nơi. Nghĩa quân đánh phá quân Pháp tại Mỹ Tho, Biên Hòa, Tân An, Cần Giuộc, Chợ Lớn. Quân Pháp không tiêu diệt được, nhưng sau đó nhờ mua chuộc Việt gian, tìm ra được bản doanh của Trương Định tại làng Kiểng Phước (Gò Công), quân Pháp vây đánh quyết liệt. Trong khi chống trả, Trương Định bị bắn gãy xương sống và hy sinh (1864).
Phong trào chống Pháp không vì thế mà dừng lại, tiếp theo Trương Định là các cuộc khởi nghĩa khác, tiêu biểu nhất là của Võ Duy Dương (? - 1886).
Địa bàn hoạt động của Võ Duy Dương là ở Đồng Tháp Mười. Ông đã từng tham gia phong trào khởi nghĩa của Trương Định, được phong chức Thiên hộ, nên thường được gọi là Thiên hộ Dương. Sau khi Trương Định hy sinh, Thiên hộ Dương ra lập căn cứ ở Bằng Lăng, đặt Tổng hành dinh trong vùng đầm lầy Đồng Tháp Mười, dùng chiến thuật du kích để đánh quân Pháp. Chiến thuật này đã làm đảo điên quân Pháp. Chính quân của Võ Duy Dương đã có sáng kiến dùng ong vò vẽ chống lại những trận càn của địch. Quân Pháp cho quân lính đi tiễu trừ mấy phen không được, cuối cùng phải huy động đại quân tấn công bản doanh Tháp Mười. Võ Duy Dương phải chạy về Vàm Cỏ Tây rồi bị bệnh thương hàn và hy sinh tại đây.

4. Mất ba tỉnh miền Tây
Trong khi nhân dân miền Đông đứng lên chống Pháp thì triều đình Huế cũng muốn đòi lại ba tỉnh đã mất, bèn cử một phái bộ do Phan Thanh Giản làm Chánh sứ, Phạm Phú Thứ làm phó sứ sang Pháp xin chuộc. Việc thương thuyết chưa ngã ngũ thì quân Pháp tiến hành cuộc đánh chiếm ba tỉnh miền Tây (6.1867). Phan Thanh Giản lúc ấy đã trở về sau chuyến đi sứ không kết quả, đang làm Kinh lược sứ ở đấy. Nghĩ rằng quân Nguyễn không thể nào chống nổi với quân xâm lược, Phan Thanh Giản dâng thành cho đối phương rồi uống thuốc độc tự tử. từ đấy Nam Kỳ trở thành thuộc địa của Pháp.
5. Phong trào chống Pháp ở miền Tây
Sau khi mất ba tỉnh miền Tây, quân triều đình rút khỏi Nam Kỳ, chiến trường ở đây chỉ còn có nhân dân và quân Pháp. Tiếp bước theo miền Đông, nhân dân miền Tây đứng lên chống Pháp mà điển hình là các cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Trung Trực và Thủ Khoa Huân.
Nguyễn Trung Trực (1838-1868) vốn ở trong hàng ngũ của Trương Định ngay từ buổi đầu tiên. Ông đã tài ba, mưu trí chỉ huy đánh đắm chiếc tàu Espérance của thủy quân Pháp trên sông Vàm Cỏ vào năm 1861. Sau đó ông được triều đình cử về làm Thành thủ úy Hà Tiên. Khi Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây, ông được lệnh của triều đình Huế ra trấn nhậm Phú Yên, nhưng Nguyễn Trung Trực không tuân lệnh, ở lại mở mặt trận chống Pháp, lập căn cứ ở Hòn Chông. Tháng 6.1868, ông tiến quân chiếm được Rạch Giá nhưng không giữ được lâu, phải chạy ra đảo Phú Quốc. Trước sức mạng ngày càng lớn của nghĩa quân, quân Pháp bèn bắt giam mẹ của Nguyễn Trung Trực để buộc ông phải ra hàng. Vì hiếu, Nguyễn Trung Trực ra nộp mình và bị hành quyết (1868).
Địa bàn hoạt động chính của Thủ Khoa Huân (tên thật là Nguyễn Hữu Huân 1830-1875) là ở An Giang. Thủ Khoa Huân vốn đã từng tham gia cuộc khởi nghĩa của Trương Định và của Thiên Hộ Dương. Vào năm 1863, ông bị quan tỉnh An Giang bắt nộp cho quân Pháp. Ông bị Pháp đày đi Nam Mỹ nhưng đến năm 1870 lại được đưa về lại Sài Gòn. Thủ Khoa Huân lại trốn về An Giang, lập căn cứ chống Pháp. Đến năm 1875, Thủ Khoa Huân bị quân Pháp bắt đưa về hành quyết tại quê nhà (huyện Chợ Gạo, Tiền Giang- 1875).
B. Pháp chiếm Bắc Kỳ
Từ sau khi mất Nam Kỳ, có nhiều nhà nho tâm huyết, muốn canh tân xứ sở để theo kịp với thời đại. Họ đề nghị những biện pháp cách tân cùng vua Tự Đức và triều đình Huế. Một số quan lại khuyên vua hủy bỏ chính sách bế quan tỏa cảng, mở cửa đón thuyền buôn nước ngoài, nhưng phương án này không được chấp thuận.
Nổi bật nhất trong các đề nghị cách tân có đề nghị của Nguyễn Trường Tộ (1828-1871). Trong suốt 9 năm liền từ 1863 đến 1871 Nguyễn Trường Tộ dâng lên vua Tự Đức rất nhiều bản điều trần, kiến nghị cách tân về mọi lãnh vực để kịp thời đối phó với tình thế nhưng không được triều thần chấp nhận.
Trong khi Triều đình Huế chưa quyết được một biện pháp cứu nước hữu hiệu, thì quân Pháp thực hiện việc đánh chiếm Bắc kỳ.
1. Nước Pháp và chính sách bành trướng
Vào thập kỷ 70 của thế kỷ 19, nước Pháp bị thua trận trước nước Phổ và bước vào nền Đệ Tam Cộng Hòa. Vì thất trận nên nước Pháp phải trả chiến phí cho Phổ. Để đền bù lại lỗ hổng thâm thủng ngân sách, Pháp triển khai mạnh mẽ chính sách thực dân của mình bởi vì kiếm được thuộc địa là tạo nên được thị trường ngoài biên giới. Thị trường Châu Âu thì như J. Ferry, Thủ tướng của Pháp tuyên bố là: "mức tiêu thụ đã cạn kiệt. Cần phải tìm nguồn tiêu thụ mới tại chỗ khác trên thế giới... Chính sách thực dân là con đẻ của chính sách công nghiệp" (J. Ferry, Le Tonkin et la mère-patrie, P. 1890, p. 40-42).
Bắc Kỳ với dân số đông đúc lại nằm kề thị trường Trung Quốc đáp ứng được nhu cầu cần nhân công rẻ, cần thị trường tiêu thụ sản phẩm công nghiệp của Pháp. Thêm nữa chính những khả năng kinh tế tự có của Bắc Kỳ cũng được thực dân Pháp đánh giá cao. Dưới mắt họ, có những hai Bắc Kỳ: "Bắc Kỳ lúa gạo" ám chỉ những vùng đồng ruộng, và "Bắc Kỳ mỏ" là những vùng có khoáng sản quý giá như mỏ than đá, mỏ bạc, mỏ vàng... Chiếm được Bắc Kỳ là mục tiêu của nền Đệ Tam Cộng Hòa Pháp.
2. Pháp mở cuộc xâm lược Bắc Kỳ lần thứ nhất (1873)
Một lái buôn người Pháp là Jean Dupuis (Đồ Phổ Nghĩa) tạo cớ để Pháp can thiệp vào Bắc Kỳ. J. Dupuis làm lái buôn tại Trung Quốc, đã không xin phép nhà cầm quyền Việt Nam, tự tiện vận chuyển muối theo sông Hồng để sang Vân Nam. Quân nhà Nguyễn ngăn trở không cho đi, J. Dupuis liền bắt quan phòng thành Hà Nội và quan huyện Thọ Xương xuống thuyền giam lại. Phía quân Nguyễn cũng bắt một số khách buôn của J. Dupuis. Triều đình Huế thông báo cho Thống đốc Nam Kỳ là Dupré và yêu cầu giải quyết. Dupré phái Trung úy hải quân Francis Garnier lấy cớ giải quyết chuyện J. Dupuis, đem lính và một hạm đội nhỏ ra Bắc Kỳ. Ra đến Bắc, F. Garnier đòi Nguyễn Tri Phương, đang công cán tại đấy, phải khai phóng sông Hồng. Nguyễn Tri Phương không đồng ý với yêu sách ấy, cương quyết đòi J. Dupuis phải rời khỏi sông Hồng.
Ngày 19.11.1873 F. Garnier bất thần cho nã súng tấn công thành Hà Nội. Nguyễn Tri Phương cùng con là Phò mã Nguyễn Lâm ra sức chỉ huy quân lính chống cự. Nhưng chỉ non một giờ thì thành Hà Nội bị vỡ. Phò mã Nguyễn Lâm tử trận, Nguyễn Tri Phương bị thương nặng. Quân Pháp bắt được ông và chiêu dụ nhưng Nguyễn Tri Phương không chịu để cho quân Pháp săn sóc vết thương, nhịn ăn mà chết.
3. F. Garnier bị giết ở Cầu Giấy - Hòa ước Giáp Tuất 1874
F. Garnier chiếm được thành Hà Nội nhưng lực lượng quân sự của Triều đình vẫn còn, do Hoàng Tá Viêm cầm đầu. Quân của Hoàng Tá Viêm phối hợp với quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc vây Hà Nội. F. Garnier phải đem quân đi đánh thì bị phục kích giết chết tại Cầu Giấy.
Trước cái chết của F. Garnier, phía Pháp đồng ý nghị hòa Nguyễn Văn Tường thay mặt cho Triều đình Huế ký hiệp ước Giáp Tuất (1874), công nhận Nam Kỳ là thuộc địa của Pháp, Pháp đồng ý trả lại Hà Nội và các tỉnh đã bị chiếm ở Bắc Kỳ. Một điểm mơ hồ trong hòa ước này là một mặt Pháp công nhận sự độc lập của Việt Nam đối với các nước khác (điều 2) nhưng đồng thời lại đòi chính sách ngoại giao của Việt Nam phải thích ứng với chính sách ngoại giao của Pháp (điều 3). Thật sự ra, thời điểm này, nước Pháp vừa mới thoát ra khỏi cuộc chiến Pháp-Phổ, không phải là thời cơ thuận lợi cho một cuộc viễn chinh lâu dài. Vì thế Pháp đồng ý hòa giải nhưng vẫn giữ cho mình một vài cớ cho các cuộc can thiệp về sau này.
4. Pháp mở cuộc xâm lược Bắc Kỳ lần thứ hai
Nền Đệ Tam Cộng Hòa Pháp vượt qua những thời điểm khó khăn của những năm 70, đến thập kỷ 80 thì đã phục hồi được nền kinh tế cũng như ổn định chính trị. Các nhà lãnh đạo như J. Ferry. Léon Gambetta, Charles Freycinet không chỉ là những người theo chủ nghĩa thực dân mà còn là những lý thuyết gia về chủ nghĩa này. Nền tư bản tài chính của Pháp phát triển mạnh mẽ. Pháp trở thành chủ nợ của Châu Âu. Trong khi ấy, Triều đình Huế bỏ ngoài tai tất cả điều trần cách tân đất nước và cũng không thi hành một biện pháp nào nhằm chặn đứng cuộc xâm lược của Pháp.
Ngày 26.3.1882 Henri Rivière đem hai pháo thuyền cùng nhiều tàu chiến ra đóng gần Hà Nội rồi đến sáng ngày 25.4, H. Rivière gửi tối hậu thư cho Tổng đốc Hà Nội là Hoàng Diệu, đòi phải nộp thành. Hoàng Diệu không đầu hàng. Quân Pháp công phá thành kịch liệt. Một kho cháy. Quân Việt tan vỡ. Hoàng Diệu viết biểu tạ tội với vua rồi thắt cổ tự tử.
Sau khi chiếm được Hà Nội, H. Rivière cho quân tiếp tục đi chiếm các tỉnh Hòn Gai, Cẩm Phả (tức là một phần của "Bắc Kỳ mỏ") và Nam Định. Vua Tự Đức kêu cứu với nhà Thanh. Khoảng 10.000 quân Trung Hoa từ Lưỡng Quảng được điều động đến biên giới. Thấy vậy, Toàn quyền Pháp tại Nam Kỳ gửi thêm quân cho H. Rivière.
5. H. Rivière bị giết ở Cầu Giấy - Hiệp ước Quý Mùi (1883) - Hiệp ước Giáp Thân
Nhận được tin quân Thanh can thiệp, H. Rivière trở về lại Hà Nội. Quân Triều đình của Hoàng Tá Viêm phối hợp cùng toán quân ở Bắc Ninh vây thành Hà Nội. H. Rivière đem quân chủ lực định vược Cầu Giấy phá vòng vây nhưng bị pháo nã chận lại. Quân Việt xung phong lên cầu giết chết được H. Rivière (19.5.1883).
Cái chết của H. Rivière không làm chùn bước xâm lăng của thực dân Pháp, mà trái lại, J. Ferry giương cao ngọn cờ trả thù cho H. Rivière và được Quốc hội Pháp phê chuẩn một ngân sách lớn cho việc đánh chiếm Bắc Kỳ.
Trong khi mọi việc chưa ngã ngũ thì vua Tự Đức mất (7.1883). Triều thân chia rẽ nhau, một bên là phe chủ chiến, một bên là phe chủ hòa. Chỉ trong vài tháng mà có đến ba lần thay vau. Triều đình không biết đến những thắng lợi mà quân dân đạt được ở Bắc Kỳ.
Lợi dụng tình hình ấy, quân Pháp do Đô đốc Courbet cầm đầu, tiến vào đánh Đà Nẵng và tấn công cửa Thuận An. Ngày 18.8.1883, quân pháp gửi tối hậu thư cho vua Hiệp Hòa đồng thời công phá thành đồn Thuận Hải. Đồn vỡ, các quan giữ thành kẻ tử trận, kẻ tự tử chết. Vua Hiệp Hòa cho người đi gặp quân Pháp xin nghị hòa và chấp nhận những điều kiện của quân Pháp. Hiệp ước Quý Mùi được ký kết vào ngày 25.8.1883 thừa nhận quyền bảo vệ của nước Pháp trên đất Việt Nam.
Trong Triều đình, phe chủ chiến đứng đầu là Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường phế vua Hiệp Hòa đi và tuyên bố phủ nhận giá trị của hiệp ước Quý Mùi 1883.
Ngay sau khi hiệp ước được ký kết, phong trào chống Pháp nổi lên mạnh mẽ ở Bắc Kỳ. Các tướng của Triều đình như Hoàng Tá Viêm, Trương Quan Đản không chấp nhận việc đầu hàng, liên tiếp tấn công các đồn trại của Pháp ở Bắc Kỳ. Chiến sự xảy ra ác liệt với sự hỗ trợ của quân đội chính quy Trung Hoa.
J. Ferry lại xin thêm được chiến phí, gửi thêm quân lính tăng viện cho Courbet. Courbet tiến đánh hạ thành Sơn Tây, Bắc Ninh, Tuyên Quang. Hoàng Tá Viêm thất trận phải theo đường thượng đạo trở về Huế. Triều đình Huế một lần nữa phải ký hiệp ước. Đó là hiệp ước cuối cùng, vẫn thường được gọi là hiệp ước Giáp Thân (1884), công nhận sự đô hộ của Pháp, chia Việt Nam làm ba phần. Nam Kỳ là thuộc địa, Bắc Kỳ nửa thuộc địa còn Trung Kỳ là đất bảo hộ.
Từ đấy nổ bùng cuộc chiến kiên cường của dân Việt Nam để giành lại độc lập.
II. Bộ máy cai trị của thực dân Pháp
1. Tổ chức chính trị, hành chính
Công việc đầu tiên của thực dân Pháp sau khi chiếm được Việt Nam là áp đặt trên thuộc địa mới này một hệ thống hành chính có khả năng thực hiện các chính sách, chủ trương của mình.
áp dụng chính sách chia để trị, thực dân Pháp phân Việt Nam ra làm ba miền. Trung Kỳ, nơi triều đình Huế vẫn còn tồn tại, đổi tên thành An Nam, một danh xưng mà chính quyền đô hộ Trung Quốc đã đặt cho Việt Nam; hai miền Bắc Kỳ và Nam Kỳ vẫn giữ tên cũ. Mỗi miền có một viên thống sứ đứng đầu và đều phụ thuộc trực tiếp vào cái gọi là Đông Dương thuộc Pháp. Đông Dương thuộc Pháp bao gồm cả Lào và Cambodge và đứng đầu là Toàn quyền Đông Dương. Giúp việc cho Toàn quyền Đông Dương là một Hội đồng Tối cao gồm các Thống sứ và các giám đốc các cơ quan quan trọng.
Triều đình nhà Nguyễn chỉ còn là hình thức. Khâm sứ Pháp chủ tọa cả Nội các nhà Nguyễn, còn các bộ đều có một cố vấn người Pháp chỉ huy. Khâm sứ Pháp còn chủ tọa ngay cả các hội đồng hoàng tộc.


2. Hệ thống giáo dục và văn hóa
Chính sách giáo dục - văn hóa của thực dân Pháp không chú ý đến việc nâng cao dân trí mà chủ yếu đào tạo ra một hàng ngũ người Việt có thể giúp việc đắc lực cho công cuộc bình định và cai trị. Chữ Quốc ngữ đã được dùng tại Nam Kỳ từ năm 1862 và lần lần lan tràn ra cả nước. Đến năm 1896, chính quyền thực dân Pháp đưa chữ Quốc ngữ vào các cuộc thi tuyển quan lại. Năm 1903 đến lược môn Pháp văn được đưa vào. Các cuộc thi hương truyền thống bị bãi bỏ vào đầu thế kỷ 19 (năm 1915 ở Bắc Kỳ, năm 1918 ở Trung Kỳ). Thay thế vào đó là một nền giáo dục gọi là Pháp - Việt được lập ra. Tiếng Pháp thành chuyển ngữ chính. Chương trình học lần lần xa rời văn hóa truyền thống Việt Nam mà lại chú trọng văn học Pháp. Trước đây, dưới thời nhà Nguyễn, các xã, làng đều có trường học. Đến nay, khi hủy bỏ việc học chữ Hán thì mặc nhiên hệ thống trường làng không còn nữa. Công việc giáo dục chỉ tập trung tại các đô thị lớn. Năm 1908 một trường Đại học được thành lập, còn trong cả nước thì chỉ có ba trường trung học. Ngoài ra, để phục vụ cho bộ máy cai trị, thực dân lập ra các cơ quan nghiên cứu như trường Viễn Đông Bác Cổ (Ecole Francaised'Extrême-Orient) sở Địa chất, sở Địa lý, sở Kiểm lâm... Người Việt không được làm việc trong các cơ sở này.
Chữ Quốc ngữ lần lần chiếm vị trí quan trọng. Báo chí và sách vở bằng chữ Quốc ngữ xuất hiện làm truyền bá càng nhanh cách viết này. Và cả phong trào chống Pháp cũng dùng chữ này để truyền bá tư tưởng độc lập tự chủ trong dân chúng.
3. Đợt khai thác lần thứ nhất
Trung thành với chủ trương biến thuộc địa thành nguồn cung cấp tài nguyên cho nền công nghiệp của mình và đồng thời là thị trường tiêu thụ các sản phẩm của nền công nghiệp đó, thực dân Pháp chú trọng đến việc cho xuất khẩu những sản phẩm thô như cao su, quặng mỏ đồng thời nhập những hàng hóa của Pháp. Một hệ thống quan thuế được thành lập để chặn nguồn nhập của các nước khác, giành độc quyền thị trường cho các sản phẩm của mẫu quốc. Các công ty của Pháp được hưởng ưu tiên, đóng thuế rất nhẹ, có khi được miễn thuế.
Đầu thế kỷ XX, than đá ở Quảng Yên cũng như các thứ quặng khác như vàng, antimoine đều được xuất sang Pháp. Công nghệ tại chỗ không được chú ý. Chỉ một số rất ít được thành lập như các hãng xay xát lúa tại Nam Kỳ, một vài hãng dệt ở Bắc Kỳ. Công ty điện nước được thành lập vào năm 1990, rồi sau đó là các công ty khác ra đời như công ty xi măng Hải Phòng, nhà máy giấy Đáp Cầu, nhà máy thuốc lá Hà Nội. Tất cả những cơ sở sản xuất trên đều thuộc hạng nhỏ còn lợi nhuận có được đều được chuyển về Pháp.
Trong lĩnh vực công nghiệp, chính quyền thuộc địa dành các đất mầu mỡ cho các Pháp kiều hoặc các công ty. Từ năm 1897 đến 1913 các Pháp kiều và các công ty chiếm được 470.000 hecta đất. Tuy thế, kỹ thuật khai thác ruộng đất không được đổi mới. Con trâu và cái cày cùng sức người vẫn là những công cụ sản xuất trên những cánh đồng mà chủ nhân ông là Pháp kiều.
Về phương diện thương mãi, hàng hóa của Pháp ngự trị thị trường vì được miễn thuế nhập. Hàng hóa Việt Nam xuất thì phải bán với giá hạ. Tất cả lợi nhuận của nền ngoại thương đều lọt vào một vài công ty như U.C.I.A., Denis Frère...
Dù sao, trên phương diện giao thông, thực dân Pháp cũng chú ý xây dựng một hệ thống giao thông nhanh hơn, lập đường xe lửa nối liền nhiều tỉnh lại với nhau như Hà Nội - Lạng Sơn, Hà Nội - Vinh, Huế - Đà Nẵng, Sài Gòn - Nha Trang... Ngoài ra tại Nam Kỳ hệ thống kênh rạch cũng được tu bổ lại. Mạng lưới giao thông có được một bộ mặt mới.
III. Phong trào yêu nước
1. Phong trào Cần Vương
Hòa ước Giáp Thân 1884 mở đầu một giai đoạn rối loạn cho Triều đình Huế. Sau khi vua Hiệp Hòa bị lật đổ rồi bị giết chết, Kiến Phúc lên thay nhưng chỉ sáu tháng lại chết. Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết đưa Ưng Lịch, mới 13 tuổi lên làm vua, tức là vua Hàm Nghi.
Mâu thuẫn ngoại giao giữa Triều đình Huế và phía Pháp nổ ra khi Toàn quyền De Courcy đòi làm lễ phong vương cho vua Hàm Nghi và đòi phải được cùng đoàn tùy tùng đi qua cổng chính là cổng chỉ dành riêng cho các vua Nguyễn (7.1885). Triều đình Huế không chấp nhận và cho quân tấn công vào tòa Khâm sứ, trại lính Pháp ở Huế. Cuộc tấn công thất bại. Vua Hàm nghi phải xuất bôn. Tôn Thất Thuyết đưa vua ra Quảng Trị rồi đến Nghệ An và đóng bản doanh tại đấy. Từ bản doanh, vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương, kêu gọi nhân dân khắp nơi nổi lên chống Pháp. Thực dân Pháp đưa quân đi càn quét núi rừng Quảng Bình, Nghệ An hòng bắt vua cho được. Đồng thời, tại Huế, thực dân Pháp đưa Đồng Khánh lên làm vua. Đồng Khánh phải thân hành sang Khâm sứ Pháp để làm lễ thụ phong.
Đến tháng 11.1886 quân Pháp mua chuộc được Trương Quang Ngọc, chỉ đạo đội quân người Mường có nhiệm vụ bảo vệ vua. Trương Quang Ngọc bắt vua dâng cho Pháp. Vua bị thực dân Pháp bắt đi đày ở Algérie.
Chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi được sự hưởng ứng mạnh mẽ khắp nơi, nhất là trong giới sĩ phu và ngay cả sau khi vua đã bị bắt đi đày rồi.
ở Trung Kỳ, tiêu biểu cho phong trào Cần Vương là cuộc khởi nghĩa của Mai Xuân Thưởng (1860-1887). Vốn là người thi đậu cử nhân, Mai Xuân Thưởng quy tụ được nhiều nhà nho tên tuổi ở Quảng Ngãi, Bình Định. Họ cùng nhau lập căn cứ ở Bình Định. Nghĩa quân của Mai Xuân Thưởng chống chọi của quân Pháp trong ba năm ròng. Quân Pháp nhiều lần viết thư dụ hàng nhưng đều bị ông từ chối. Cuối cùng quân Pháp điều Trần Bá Lộc, một kẻ cộng tác đắc lực với Pháp, từ Nam Kỳ ra đương đầu cùng nghĩa quân khởi nghĩa. Sau nhiều lần giao tranh đều thất bại, Trần Bá Lộc đành dùng lại biện pháp mà quân Pháp đã dùng với Nguyễn Trung Trực: cho bắt mẹ của Mai Xuân Thưởng để buộc ông phải ra hàng. Mai Xuân Thưởng ra nộp mình để cứu mẹ. Ông không chấp nhận việc quy hàng và bị đưa ra hành quyết tại quê nhà (Bình Định).
Một cuộc nổi dậy hưởng ứng chiếu Cần Vương tại Thanh Hóa là của Đinh Công Tráng (?-1887).Đinh Công Tráng nguyên là tùy tướng của Hoàng Tá Viêm. Khi vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương, ông cùng các nho sĩ nổi tiếng như Đốc học Phạm Bành, Tiến sĩ Tống Duy Tân... xây dựng căn cứ địa Ba Đình tại Thanh Hóa. Nghĩa quân thường đi đánh phá các đồn bót của quân Pháp. Sau ba năm chiến đấu, căn cứ của nghĩa quân bị quân Pháp phá được. Trên đường rút lên núi, Đinh Công Tráng bị tử thương.
ở Hà Tĩnh, cuộc khởi nghĩa của Phan Đình Phùng (1847-1895) và Cao Thắng (1864-1893) cũng đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử dân tộc. Phan Đình Phùng đã n bái yết vua Hàm Nghi sau khi vua xuất bôn và nhận nhiệm vụ lãnh đạo phong trào Cần Vương tại Nghệ An, Hà Tĩnh. Ông xây dựng đồn trại, lập xưởng công binh chế tạo vũ khí. Quân Pháp với sự giúp sức đắc lực của Hoàng Cao Khải, nhiều lần dụ ông ra hàng nhưng không được bèn cho quật mồ tổ tiên ông. Cuộc chiến đấu của Phan Đình Phùng kéo dài đến hơn 10 năm. Trong một lần bị bao vây, ông bị bệnh kiết l?và chết.
Quân Pháp lại phải đối phó với phong trào Cần Vương ở Bắc Kỳ. Nguyễn Thiện Thuật (1844-1926) lập chiến khu ở Bãi Sậy, dùng chiến thuật du kích tấn công tiêu diệt các toán quân tuần tiễu, các đồn bót của Pháp. QUân Pháp bị thiệt hại nhiều trận nặng nề, dồn lực lượng càn quét nhiều lần không được, đành phải đưa Hoàng Cao Khải ra trấn áp và dụ hàng. Lực lượng nghĩa quân bị thiệt hại nặng. Nguyễn Thiện Thuật giao quyền chỉ huy lại cho em, lên đường sang Trung Quốc tìm Tôn Thất Thuyết để bàn cách phục hưng. Nhưng việc không thành. ông đành nương náu tại đấy.
Một cuộc khởi nghĩa lừng lẫy khác là tại Yên Thế do Hoàng Hoa Thám chỉ huy (1858-1913) chỉ huy. Cuộc khởi nghĩa này làm tiêu hao lực lượng của quân Pháp, không để chúng yên ổn áp dụng chính sách cai trị của mình tại Bắc Ninh, Thái Nguyên. Quân Pháp phải ra sức đàn áp đến năm 1913 mới diệt được.
2. Phong trào yêu nước vào đầu thế kỷ 20
Qua đầu thế kỷ 20, phong trào yêu nước của dân tộc Việt Nam không còn mang thuần màu sắc quân sự nữa. Các cuộc đấu tranh chính trị bắt đầu xuất hiện mà điển hình là phong trào Đông Du do Phan Bội Châu cầm đầu.
Là một nho sĩ nổi tiếng, Phan Bội Châu tập hợp lại các sĩ phu của phong trào Cần Vương sau khi phong trào này thất bại và thành lập một tổ chức mới là phong trào Duy Tân. Phong trào Duy T ân chủ trương đưa người ra nước ngoài mà cụ thể là nước Nhật để học hỏi những tiến bộ của thời đại, chuẩn bị cho lực lượng về sau. Kỳ Ngoại hầu Cường Để được đưa sang Nhật để móc nối trước với nhà cầm quyền Nhật Bản. Vào năm 1908, 200 thanh niên được gửi sang đấy. Nhưng Nhật không sẵn lòng giúp. Phan Bội Châu và Cường Để phải sang trốn tránh ở Trung Quốc.
ở trong nước, các sĩ phu chuyển hướng khác. Dưới sự chỉ đạo của Lương Văn Can, trường Đông Kinh Nghĩa Thục được thành lập với mục đích truyền bá các tư tưởng tân tiến, đề xướng phong trào tân học với mục đích đào tạo những thanh niên ưu tú để thực hiện công cuộc đòi lại chủ quyền quốc gia. Dù hoạt động chỉ được một năm, nhưng Đông Kinh Nghĩa Thục đã đánh dấu việc chuyển hướng quan trọng của giới trí thức Việt Nam.
Khác với chủ trương muốn dùng bạo lực để chống Pháp của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh (1872-1926) chủ trương cứu nước bằng đường lối cải lương, mở mang dân trí và tranh thủ đòi hỏi ở chính quyền quyền dân sinh dân chủ. Ông bị Pháp bắt và đày đi Côn Đảo vào năm 1908. Do hội Nhân quyền Quốc tế can thiệp, ông được thả ra và bị quản thúc tại Mỹ Tho. Năm 1914, Phan Chu Trinh lại bị bắt vì bị nghi ngờ là đã liên lạc với Cường Để. Năm 1922, ông sang Pháp tiếp tục hoạt động của mình. Sau đó lại về nước và mất năm 1926. Đám tang của ông được các nhà yêu nước tổ chức khắp cả ba kỳ.
Giai đoạn sau thế chiến thứ nhất (1919-1945)
I. Đợt khai thác lần thứ hai của Pháp
Sau thế chiến thứ nhất, dù thắng trận, Pháp vẫn bị thiệt hại nặng nề. Để cứu vãn nền kinh tế, Pháp ra sức vơ vét các thuộc địa.
Pháp tăng cường đầu tư vào Việt Nam. Tổng số vốn được đầu tư vào Việt Nam từ 1919 đến 1929 lên đến 8 tỷ FF. Ngân Hàng Đông Dương mà ban Giám đốc bao gồm các nhà kỹ nghệ, các nhà tài phiệt thực sự cai trị Việt Nam. Hoạt động đầu tư chú trọng vào việc khai thác mỏ, đồn điền cao su. Tất cả lợi nhuận đều được đưa về Pháp.
Các đồn điền cao su được mở rộng. Diện tích trồng cao su từ 15.000 hecta vào năm 1924 lên đến 120.000 hecta vào năm 1930.
Hoạt động mỏ cũng phát triển tăng vọt. Vào năm 1923 có 496 mỏ được khai thác thì đến năm 1929 có đến 17.685 mỏ. Đa số các mỏ ấy tập trung ở Bắc Kỳ.
Nhưng trái lại, ngành sản xuất chế biến thì không có phát triển gì nhiều, vì Pháp muốn duy trì sự độc quyền của mình trong sản xuất cũng như trong việc tiêu thụ hàng hóa.
II. Sự phân hóa trong xã hội Việt Nam
Cuộc khai thác lần thứ hai của Pháp đã tạo ra sự phân hóa sâu sắc trong xã hội Việt Nam.
Giai cấp địa chủ được sự nâng đỡ của phía Pháp trở thành chỗ dựa cho chủ nghĩa đế quốc. Giai cấp nông dân bị bần cùng hóa và bị khai thác lao động triệt để. Giai cấp tư sản ngày càng thêm đông. Đó là những người tự bỏ vốn ra kinh doanh và đã thành công trong thương trường cũng như trong công nghệ.
Giai cấp tiểu tư sản ra đời do sự phát triển của các ngành kinh tế, sự phổ biến các cơ quan hành chính, giáo dục, văn hóa. Giai cấp công nhân ra đời từ đợt khai thác thứ nhất càng phát triển mạnh trong đợt khai thác thư hai này. Giai cấp này đã nhanh chóng tiếp thu tư tưởng của Cách Mạng Tháng Mười Nga và tạo được một lực lượng vững vàng cho cuộc chiến đấu vì độc lập tự do.
III. Phong trào chống Pháp
1. Phong trào báo chí
Phong trào chống Pháp giai đoạn sau thế chiến thứ nhất tiếp tục phát triển. Phong trào tỏa rộng ra mọi tầng lớp nhân dân. Nổi bật nhất là phong trào của công nhân và giới tiểu tư sản trí thức. họ đã cho ra những tờ báo bằng tiếng Pháp hoặc bằng chữ Quốc ngữ kêu gọi lòng yêu nước của toàn dân đồng thời mở ra phương cách đấu tranh. Nguyễn An Ninh cho ra tờ "La Cloche fêlée" (Chuông rè) ở Nam Kỳ vào ngày 10/12/1923 không những công kích giới quan lại thối nát mà còn lên án thực dân Pháp. Những cuộc diễn thuyết, vận động quần chúng của Nguyễn An Ninh đã là tiếng vang lớn trong quần chúng, tạo thuận lợi cho sự ra đời của "Đảng Thanh Niên Cao Vọng". Đảng này được sự ủng hộ của giới trí thức Nam Kỳ. Để đè bẹp phong trào này, thực dân Pháp cho bắt Nguyễn An Ninh, kết tội ông viết truyền đơn, viết báo xúi giục dân chúng phá rối trật tự an ninh. Sau khi ra tù, Nguyễn An Ninh lại lập hội kín, hội này phát triển chủ yếu ở Sài Gòn, Gia Định và có ảnh hưởng đến các địa phương khác. Bên cạnh các hoạt động của Nguyễn An Ninh còn có Ngô Đức Kế với tờ báo "Hữu Thanh", Huỳnh thúc Kháng với tờ "Tiếng Dân". Hai tờ này viết bằng chữ quốc ngữ và rất phổ biến.
2. Các cuộc biểu dương tinh thần chống Pháp
Hai sự kiện chính trị lớn đã nổ ra và gây dấu ấn sâu sắc lên cuộc sống chính trị của dân chúng. Sự kiện thứ nhất là cuộc đấu tranh của nhân dân trong cả nước và của Việt kiều ở nước ngoài đòi ân xá cho nhà cách mạng Phan Bội Châu Nguyên vào ngày 30.6.1925, thực dân tổ chức bắt cóc Phan BộiChâu tại Thượng Hải khi ông đang hoạt động ở đấy. Chúng đem ông về Việt Nam và đưa ra tòa để hình xử kết ánn chung thân. Bản án này gặp phải sự phản kháng mạnh mẽ của dân chúng. Các cuộc bãi công, bãi thị xảy ra khắp nơi đòi tha bổng cho Phan Bội Châu. Toàn quyền bấy giờ là Varenne phải tuyên bố tha bổng Phan Bội Châu nhưng lại đưa ông về giam lỏng ở Huế.
Trong cuộc vận động này có vai trò quan trọng của một tổ chức yêu nước mới thành lập. Đó là hội Phục Việt. Hội này kết hợp hoạt động cùng "Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội". Sau một thời gian hoạt động, bi 5lộ, hội đổi tên nhiều lần, cuối cùng quyết định lấy tên là "Tân Việt Cách Mạng Đảng" .
Sự kiện thứ hai là đám tang của Phan Chu Trinh. Sau những năm tháng lăn lộn hoạt động chính trị, Phan Chu Trinh lâm bệnh và mất ngày 24.3.1926. Đám tang của ông được tổ chức rộng khắp ba kỳ và trở thành một dịp biểu dương lớn tinh thần yêu nước và ý chí kháng Pháp của dân tộc Việt Nam.


3. Các tổ chức chống Pháp ở nước ngoài
Phong trào đấu tranh chống Pháp không chỉ có ở trong nước, mà cũng phát triển rất mạnh mẽ ở nước ngoài. "Hội Liên hiệp các Dân tôc Thuộc Địa" do Nguyễn ái Quốc cùng một số người yêu nước thành lập tại Pháp vào năm 1921. Tổ chức này phổ biến chủ nghĩa Mác-Lênin đến các dân tộc thuộc địa. Nguyễn ái Quốc cho ra tờ "Le Paria" (Người Cùng Khổ) lên án chính sách bóc lột dã man của thực dân Pháp, kêu gọi các dân tộc bị trị vùng lên chống chủ nghĩa thực dân. Dù bị kiểm soát chặt chẽ, tờ "Le Paria" cũng vẫn được chuyển về trong nước và tác động lớn đến phong trào chống Pháp tại đây.
Một tổ chức hải ngoại khác là nhóm "Tân Tâm Xã" ra đời ở Quảng Châu gồm những thanh niên trẻ tuổi đầy nhiệt huyết từ tổ chức "Việt Nam Quang Phục Hội" mà ra. Năm 1924, biết tin Toàn quyền Đông Dương là Merlin trên đường sang Nhật sẽ ghé Trung quốc, "Tâm Tâm Xã" quyết định ám sát y để gây tiếng vang cho phong trào đánh đuổi thực dân. Nhiệm vụ này được giao cho Phạm Hồng Thái. Đêm 19.6.1924 Merlin dự tiệc chiêu đãi ở khách sạn Victoria tại Sa ĐIện nằm trong tô giới của Anh. Phạm Hồng Thái cải trang thành phóng viên lọt được vào và ném bom lên bàn tiệc của Merlin. Bom nổ nhưng chỉ làm Merlin bị thương. Hành động xong, Phạm Hồng Thái bị cảnh binh rượt đuổi gấp phải nhảy xuống Châu Giang trầm mình. Tiếng bom sa Điện đã có ảnh hưởng trong và ngoài nước, góp phần thúc đẩy phong trào chống Pháp tăng cao.
Sau tiếng bom Sa Điện, Nguyễn ái Quốc đến Quảng Châu. Tại đây, từ hạt nhân của "Tâm Tâm Xã", ông thành lập ra tổ chức "Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội", trong đó có tổ chức "Cộng sản đoàn" làm nòng cốt (6.1925). "Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội" tìm cách tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, tạo tiền đề cho công cuộc giải phóng dân tộc và giai cấp trong nước.
4. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái
Tháng 12 năm 1927, Nguyễn Thái Học cùng một số người yêu nước thành lập tổ chức Việt Nam Quốc Dân Đảng. Nguyễn Thái Học được bầu làm Chủ tịch Đảng. Việt Nam Quốc Dân Đảng chủ trương liên kết lại mọi tầng lớp nhân dân, không phân biệt giai cấp hay tôn giáo; dùng vũ lực để lấy lại quyền độc lập tự chủ của đất nước và lập một chính thể cộng hòa theo chủ nghĩa dân chủ xã hội. Việt Nam Quốc Dân Đảng phát triển mạnh ở các tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang, Phú Thọ, Thái Bình, Hưng Yên, Hải Dương... Tháng 2-1929 Việt Nam Quốc Dân Đảng cho người ám sát Bazin, trùm mộ phu cho các đồn điền cao su của Pháp ở Nam Kỳ. Mật thám Pháp ra tay khủng bố. Nhiều Đảng viên bị bắt. Nhiều cơ sở Đảng bị tan vỡ. Nguyễn Thái Học quyết định dốc hết lực lượng mở cuộc tổng khởi nghĩa nhưng thất bại. Nguyễn Thái Học bị bắt và bị tử hình cùng 12 đồng chí của mình. Tổ chức Việt Nam Quốc Dân Đảng tan vỡ.


IV Công cuộc giải phóng dân tộc
1. Đảng Cộng Sản Việt Nam ra đời
Trước sự phát triển của các cuộc đấu tranh chống Pháp và sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Yên Bái, các nhà lãnh đạo
"Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội" nhận thấy phải thành lập một chính đảng có khả năng đoàn kết toàn dân để lãnh đạo công cuộc giải phóng của dân tộc. Vào tháng 3.1929 chi bộ Cộng sản đầu tiên gồm có bảy người ra đời tại Hà Nội.
Ngày 17/6/1929 Đảng Cộng Sản Đông Dương được thành lập, báo "Búa Liềm" làm cơ quan ngôn luận cho Đảng. Sau đó Ban chấp hành trung ương của "Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội" thành lập "An Nam Cộng Sản Đảng". Đồng thời "Tân Việt Cách mạng Đảng" cũng đứng ra thành lập "Đông Dương Cộng Sản Liên Đoàn".
Để đoàn kết lại các lực lượng chống Pháp, ba Đảng gọn lại tại Cửu Long (gần Hồng Kông) để đi đến hợp nhất với sự chủ tọa của Nguyễn ái Quốc (2.1930). "Đảng Cộng Sản Việt Nam" ra đời cùng cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Cương lĩnh vạch rõ hai giai đoạn của Cách mạng Việt Nam là: Cách mạng tư sản dân quyền tức là cách mạng dân tộc dân củ nhân dân và Cách mạng xã hội chủnghĩa. Cương lĩnh đồng thời khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng trong công cuộc cách mạng.
2. Phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào cách mạng trongđ nước phát triển mọi nơi và trong nhiều lĩnh vực. Đảng chủ trương tổ chức lại hàng ngũ công nhân để lãnh đạo cuộc đấu tranh. Vào năm 1930 các công đoàn bí mật được thành lập có tới 10.000 thành viên. Các cuộc đình công, bãi công nổ ra khắp nơi như cuộc bãi công của 3.000 công nhân đồn điền cao su Phú Riềng, cuộc bãi công của 4.000 công nhân nhà máy sợi Nam Định, của công nhân nhà máy diêm Bến Thủy, hãng dầu Nhà Bè (Sài Gòn), nhà máy xi măng Hải Phòng...
Cuộc đầu tranh của nhân dân hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh là điểm cao của phong trào cách mạng trong giai đoạn này. Ngày 1/5/1930 công nhân và nông dân lân cận thị xã Vinh rầm rộ biểu tình, nêu khẩu hiệu đòi thi hành luật lao động, bớt giờ làm, tăng tiền lương. Đoàn biểu tình bị quân Pháp xả súng bắn làm 7 người chết, 18 người bị thương. Sự đàn áp này không dập tắt được phong trào mà trái lại, các cuộc biểu tình với cờ búa liềm nổ ra liên tiếp dưới quy mô càng ngày càng lớn.
Phong trào phát triển cực độ vào tháng chín. Ngày 12.9 gần thị xã Vinh, 20.000 nông dân biểu tình và bị đàn áp dã man bằng máy bay ném bom. 217 người chết và 126 người bị thương. Nhân dân liền vũ trang nổi dậy, phá huyện l? nhà ga, bưu điện, nhà giam, tự đứng ra lập chính quyền cách mạng. Chính quyền cách mạng thi hành ngay các chủ trương dân sinh dân chủ của Đảng, bãi bỏ hệ thống thuế của thực dân, lấy ruộng công chia cho nông dân, giảm tô, xóa nợ, khuyến khích việc học chữ Quốc ngữ...
Trong suốt thời gian tồn tại ngắn ngủi của mình, Xô Viết Nghệ Tĩnh đã phải đối phó với sự chống trả của thực dân Pháp. Chúng lập đồn bót, xua quân đi bắn giết dân chúng, đốt phá làng mạc... Nhiều tổ chức của Đảng bị phá vỡ. Phong trào lắng xuống vào giữa năm 1931. Mặc dù bị tan rã, phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh là điểm cao của cách mạng và là tiền đề cho cuộc Cách Mạng Tháng Tám sau này.
Thời kỳ sau Xô Viết Nghệ Tĩnh, phong trào cách mạng gặp phải sự khủng bố cực điểm của thực dân Pháp. Con số người bị bắt, bị đày lên rất cao, các nhà tù đều chật ních các người yêu nước. Trần Phú, Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng bị bắt, bị tra tấn đến chết (4.1931). Đứng trước tình thế khó khăn ấy, Đảng vẫn kiên trì hoạt động với sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân khắp nước. Nhờ thế phong trào đấu tranh vẫn được tiếp tục dưới nhiều hình thực khác nhau. Các cuộc bãi công, bãi thị, bãi khóa vẫn tiếp tục nổ ra, đặc biệt vào ngày Quốc tế Lao động năm 1938, một cuộc biểu tình khổng lồ hơn hai vạn rưỡi người nổ ra ở quảng trường nhà Đấu Xảo Hà Nội đòi được tự do lập hội, đòi thi hành luật lao động.
3. Khởi nghĩa Bắc Sơn (9.1940)
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ vào tháng 9/1939, nước Pháp bị phát xít Đức chiếm đóng, nhà nước Pháp đầu hàng. Trong khi ấy tại châu á Phát xít Nhật bành trướng thế lực của mình, muốn hất cẳng Pháp ra khỏi Đông Dương.
Phát xít Nhật cho quân đánh vào Lạng Sơn (9/1940). Nhân dịp quân Pháp đang bối rối, nhân dân Bắc Sơn cướp khí giới của quân Pháp, đứng lên thành lập chính quyền cách mạng tại Bắc Sơn. Chính quyền cách mạng tịch thu của cải của thực dân Pháp đem chia cho người nghèo. Quần chúng gia nhập lực lựng quân đội rất đông và thành lập được đội quân du kích Bắc Sơn. Nhưng thực dân Pháp thỏa hiệp cùng Nhật, củng cố lực lượng. Thực dân Pháp được Nhật trao lại Lạng Sơn, thẳng tay đàn áp, giết chết hàng loạt người dân. Tuy thế đội du kích Bắc Sơn vẫn tồn tại để rồi sau đó hợp với các đội du kích khác mà trở thành đội du kích đầu tiên của Việt Minh.
4. Khởi nghĩa Nam Kỳ (23/11/1940)
Thực dân Pháp xung đột với quân phiệt Xiêm tại biên giới Lào - Campuchia, bèn bắt binh lính Việt Nam đi đánh trận thay cho chúng ở mặt trận này. Đảng bộ Nam Kỳ quyết định cho khởi nghĩa. Cuộc khởi nghĩa nổ ra vào đêm 23/11/1940, triệt hạ được nhiều đồn bót, thành lập được chính quyền nhân dân, lan rộng đến 8 tỉnh Nam Bộ. Thực dân Pháp lại đàn áp dã man, triệt hạ làng xóm, bắn và giết chết hơn 20.000 người. Một số cán bộ chủ chốt của Đảng là Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Văn Cừ bị bắt và bị xử bắn.
5. Mặt trận Việt Minh
Trong thời kỳ thế chiến thứ hai, nhân dân Việt Nam vừa bị Pháp đô hộ, vừa bị Nhật bóc lột, đó là tình trạng mà các nhà viết sử thường gọi là "một cổ hai tròng". Trước tình hình khẩn trương đó, Nguyễn ái Quốc về nước triệu tập hội nghị Trung ương Đảng tại Pác Bó để hạ quyết tâm giải phóng cho được các dân tộc Đông Dương khỏi ách Pháp Nhật. Việt Nam Độc Lập Đồng Minh (tức là Việt Minh) được thành lập (1941). Đội Cứu Quốc Quân của Mặt trận Việt Minh phát động chiến tranh du kích toàn quốc. Hội cứu quốc được thành lập ở nhiều nơi. Các tờ báo của Đảng như tờ Giải Phóng, Cứu Quốc, Việt Nam Độc lập... phổ biến chủ trương chống Pháp Nhật, thu hút đông đảo quần chúng tham gia chiến đấu. Mặt trận Việt Minh đã tạo được chân rết trên khắp lãnh thổ.
Ngày 22/12/1944 Việt Nam Tuyên Truyền Giải Phóng Quân ra đời dưới chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, đẩy mạnh phong trào đấu tranh chính trị kết hợp với võ trang.
Khu Giải phóng Việt Bắc ra đời vào ngày 4/6/1945 đánh dấu một bước phát triển mới. Đó là căn cứ địa chính của phong trào giải phóng dân tộc, nối các lực lượng của các tỉnh miền thượng du Bắc Việt với các tỉnh miền trung du.
6. Cách Mạng Tháng Tám
Tháng 5/1945 Phát xít Đức thua trận. Nhật đầu hàng quân đồng minh vô điều kiện. Tình hình biến chuyển có lợi cho cách mạng Việt Nam. Đảng họp hội nghị toàn quốc vào ngày 13/8/1945 ở Tân Trào (Tuyên Quang) quyết định Tổng khởi nghĩa. Sau đó, Quốc dân Đại hội được triệu tập, cũng họp ở đây. Đại hội tán thành quyết định Tổng khởi nghĩa và cử ra "ủy Ban Dân Tộc Giải Phóng Việt Nam" (tức Chính Phủ Lâm Thời của nước Việt Nam DÂn Chủ Cộng Hòa sau này). Lãnh tụ Hồ Chí Minh được bầu làm chủ tịch. Người viết "Thư kêu gọi Tổng khởi nghĩa" gửi đến toàn dân.
Ngày 16/8 mở đầu công cuộc tổng khởi nghĩa, đội quân giải phóng do Võ Nguyên Giáp chỉ huy tiến về giải phóng Thái Nguyên. Các địa phương khác như Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh... nối tiếp nhau được giải phóng.
Ngày 17/8, cuộc biểu tình ủng hộ Việt Minh nổ ra tại Hà Nội. Tiếp sau đó là Huế và Sài Gòn. Chỉ trong vòng 15 ngày cuộc khởi nghĩa phát triển trên phạm vi toàn quốc.
Ngày 2/9, tại quảng trường Ba Đình - Hà Nội, trước hơn 50 vạn nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản "Tuyên ngôn độc lập", khai sinh ra nước Việt Nam mới, nước Việt Nam DÂn Chủ Cộng Hòa. Bản Tuyên Ngôn bắt đầu bằng câu: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền sung sướng và quyền tự do".
Để dành được thắng lợi trên, dân tộc Việt Nam đã hy sinh không bờ bến từ thế hệ này nối tiếp thế hệ khác, đã dùng nhiều biện pháp từ ôn hòa đến bạo lực. Cuối cùng dưới sự lãnh đạo của một chính đảng có sức đoàn kết toàn dân, Việt Nam đã thoát được ách đô hộ, trở lại một nước độc lập tự chủ.
C. Nhân vật, di tích tiêu biểu
Trong thời kỳ Pháp thuộc, người Việt Nam liên tiếp đứng lên tranh đấu cho nền độc lập, tự chủ. Nhiều, rất nhiều người con ưu tú của đất nước đã ngã xuống trong các tình huống khác nhau. Trong số ấy có những nhân vật nổi bật như Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết là những người phát động phong trào Cần Vương. Đó còn là Mai Xuân Thưởng, Đinh Công Tráng, Phan Đình Phùng, Cao Thắng, Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng Hoa Thám... là những người trên mọi miền của tổ quốc đã hưởng ứng phong trào Cần Vương. Họ cũng là những nhà yêu nước của các thập kỷ đầu thế kỷ XX: Phan Bội Châu, Lương Văn Can, Phan Châu Trinh, Phạm Hồng Thái, Nguyễn Thái Học, Nguyễn An Ninh; là các nhà lãnh tụ của phong trào Cộng sản: Nguyễn ái Quốc, Trần Phú, Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Thị Minh Khai, Lê Hồng Phong, Hoàng Văn Thụ... Tập sách này đơn cử nhân vật Phan Chu Trinh, tượng trưng cho một khía cạnh nhỏ trong phong trào chống Pháp rộng lớn của nhân dân Việt Nam và Mười Tám Thôn Vườn Trầu, một trong những địa bàn cách mạng Việt Nam.
* Phan Chu Trinh (1872 - 1926)
Phan Chu Trinh là nhà yêu nước và cũng là nhà thơ. Ông có tự là Tử Cán, hiệu Tây Hồ, biệt hiệu Hy Mã, sinh ngày 9 tháng 9 năm 1872 tại làng Tây Lộc, huyện Hà Đông, tỉnh Quảng Nam. Thuở nhỏ ông theo lối học cử nghiệp. Năm 27 tuổi ông được vào trường tỉnh, nổi tiếng học giỏi cùng với Trần Quý Cáp và Huỳnh Trúc Kháng. Năm Canh Tý (1900) ông đậu cử nhân ở trường Thừa Thiên, năm sau lại đậu Phó bảng và được bổ làm Thừa biện bộ Lễ.
Sớm nhận ra quan trường là "Túi cơm giá áo loàng xoàng; Gối tớ lưng tôi lúc nhúc đây" nên ông từ quan (1905), cùng với Trần Quý Cáp và Huỳnh Trúc Khách đi chu du về Nam. Đến Bình Định thấy có khoa thi, ông và các bạn cùng vào dự thi, lấy tên chung là Đào Mộng Giác. Bài thơ kêu gọi lòng yêu nước "Chí thành thông thánh" của ông làm cho các quan trường thi bối rối, phải báo cáo về triều đình.
Sau đó ông đổi hướng, đi lên căn cứ kháng chiến của Đề Thám ở Bắc Giang để quan sát tình hình. Năm 1906 ông qua Nhật gặp Phan Bội Châu, trao đổi ý kiến và xem xét cuộc duy tân của người Nhật. Khâm phục chí khí của Phan Bội Châu nhưng không đồng quan điểm, ông chủ trương cứu nước bằng đường lối cải lương, mở mang dân trí và tranh thủ đòi hỏi chính quyền quyền dân sinh dân chủ. Với chủ trương đó ông về nước hoạt động, gửi một bản điều trần dài cho Toàn quyền Đông Dương, diễn thuyết ở trường Đông Kinh Nghĩa Thục, viết bài "Tỉnh quốc hồn ca" kêu gọi duy tân theo hướng dân chủ tư sản.
Năm 1908, ông bị bắt và bị đày đi Côn Đảo vì vai trò quan trọng của ông trong phong trào chống thuế ở Trung Kỳ. Do Hội Nhân Quyền Quốc Tế can thiệp, ông được trả tự do và bị quản thúc ở Mỹ Tho (1911)
Trong thời gian ở Mỹ Tho, ông tập hợp những bài thơ của mình thành "Tây Hồ thi tập". Cùng năm đó ông qua Pháp. Ông phải làm nghề chụp ảnh để kiếm sống. Năm 1914 chính quyền Pháp bắt ông vì cho là ông đã liên lạc với Cường Để để chống Pháp, nhưng thiếu bằng chứng nên phải tha bổng ông sau 9 tháng giam giữ. Trong tù ông làm hơn 200 bài thơ tập hợp trong "Santé thi tập". Thời gian ở Pháp, Phan Chu Trinh có liên hệ mật thiết với Nguyễn ái Quốc và Phan Văn Trường.
Năm 1922, Khải Định sang Pháp dự triển lãm thuộc địa tại Marseilles, Phan Chu Trinh viết "Thư thất điều" kẻ bảy tội của Khải Định mà tội chính là làm nhục quốc thể và vung phí của dân.
Khoảng năm 1922-1923 ông viết bài "Tỉnh quốc hồn ca" mới để hiệu triệu nhân dân Việt Nam và nhân dân Pháp.
Thấy hoạt động ở Pháp không có hiệu quả lớn, ông về nước. Tại Sài Gòn, ông tổ chức nhiều cuộc hội thảo về "Đạo đức và luân lý Đông Tây", "Quân trị chủ nghĩa và dân trị chủ nghĩa".
Ông mất tại Sài Gòn vào ngày 24.3.1926. Đám tang của ông trở thành một cuộc biểu dương chính trị chống Pháp trên cả ba kỳ.
Là một người yêu nước nồng nàn, các hoạt động và thơ văn của Phan Chu Trinh đã góp phần vào việc thức tỉnh nhân dân, dấy lên một phong trào yêu nước sôi nổi trong những thập kỷ đầu của thế kỷ hai mươi.
Mười tám thôn vườn trầu (Phù Lưu Viên)
Mười Tám Thôn Vườn Trầu xưa được sách Gia Định thành thông chí gọi theo cách chữ Hán và Phù Lưu Viên (vườn trầu) để chỉ miệt vườn Bà Điểm - Hóc Môn. Dưới thời Minh Mạng (1820 - 1840) đấy là các thôn thuộc tổng Dương Hòa Thượng, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định. Nay là Vười trầu thuộc huyện Hóc Môn, TPHCM.
Phú Lưu Viên, theo sách Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức nguyên là một vùng hiểm yếu, có nhiều rừng rậm, mãnh hỗ thường bắt người, nên tục ngữ có câu "dữ như cọp Vườn Trầu". Tuy thế, ở chỗ thị tứ thì dân cư đông đúc, có nhiều vườn trầu. Mỗi lúc đi bán trầu, các nhà vườn thường rủ nhau cùng nhập toán lên đến ba, bốn mươi người gồng gánh đem trầu về bán tận Sài Gòn, Bến Nghé.
Mười Tám Thôn Vườn Trầu còn nổi tiếng với nghề nuôi ngựa đua:
Trải xem Thập Bát Phù Viêne
Một nơi Bà Điểm khuôn viên mỹ miều
Ngựa hay mua sắm quá nhiều
Mỗi kỳ đua ngựa thảy đều có ăn
Hai mươi hai hạt xa gần
Tiếng ngựa Bà Điểm ai bằng đặng đâu
Và nghề nuôi gà đá:
Tiếng đồn gà đá chưn trơn
Thời gà Bà Điểm lắm cơm ăn tiền
Mười Tám Thôn Vườn Trầu là quê hương và đồng thời là một trong các địa bàn hoạt động của nhà cách mạng Nguyễn An Ninh, người đã lập nên tờ báo "La Cloche fêleé", "La Lutte" công kích giới quan lại thối nát và lên án thực dân Pháp.
Điểm nổi bật nhất của Mười Tám Thôn Vườn Trầu là tinh thần đoàn kết chiến đấu, là tính cách mạng rất sớm ngay từ khi đất nước mới sa vào vòng lệ thuộc. Phản ứng của nhân dân Mười Tám Thôn Vườn Trầu trước cảnh áp bức là:
Mười tám thôn ruột đau như chí thắt
Dân Hóc Môn tợ muối xát lòng
Mùa xuân năm 1885, nông dân Hóc Môn và Đức Hòa, dưới sự chỉ huy của hai ông Phan Công Hớn (Người Bà Điểm) và ông Nguyễn Văn Quá (Người Đức Hòa ) đã đứng lên khởi nghĩa. Trấn quận Hóc Môn lúc bấy giờ là đốc phủ Trần Tử Ca, nổi tiếng là tên tay sát khát máu và đắc lực của thực dân Pháp:
Xe song mã sướng đà quá sướng
Dân bần tiện lòng kia chẳng tưởng
ép lấy dầu, nạp thiếu thâu đa
(Vè Quản Hớn)
Đêm 30 rạng mồng một Tết ất Dậu (1885), nhân dân Hóc Môn nổi lên chiếm l?sở Hóc Môn:
Gậy tầm vong, mõ ống vai mang,
Qua giờ dậu đoạt nơi yểm lộ
Dân Hóc Môn bắn chết Đốc phủ ca, bêu đầu lên cột đèn trước chợ rồi kéo rốc về Sài Gòn, nhưng chỉ đến Bình Hòa thì đụng phải quân Pháp. Cuộc khởi nghĩa bị đàn áp đẫm máu. Nghĩa quân thua trận.
Tinh thần của Mười Tám Thôn Vườn Trầu không ngừng lại ở đấy mà tiếp tục vào các giai đoạn sau.
Mười Tám Thôn Vườn Trầu với những gia đình cơ sở cách mạng trung kiên chí cốt đã đã là địa bàn hoạt động của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ thập kỷ đầu của Đảng. Tại đây đã có mặt các nhà lãnh đạo cách mạng như Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Văn Cừ, Võ Văn Tần.. cũng tại đây đã diễn ra nhiều cuộc họp quan trọng và quyết định của Trung ương Đảng. Hai hội nghị Trung ương lần thứ tư vào năm 1937, lần thứ năm vào năm 1938 đều họp tại ấp Tiền Lân. Đặc biệt hội nghị Trung ương Đảng lần thứ sáu vào năm 1939 họp tại ấp Tây Bắc Lân, có các nhà cách mạng Nguyễn Văn Cừ, Lê Duẩn, Phan Đăng Lưu, Võ Văn Tần tham dự. Hội nghị đã giải quyết những vấn đề chiến lược nhằm đánh đổ chính quyền đế quốc và tay sai bằng cách vận dụng thời cơ tứ cuộc chiến tranh thế giới để giành chính quyền.
Cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ bùng nổ đầu tiên tại Hóc Môn vào rạng sáng 23 tháng 11 năm 1940. Người dân Mười Tám Thôn Vườn Trầu tự vũ trang bằng gậy gộc, giáo mác đánh vào các cơ quan hành chính của Pháp. Cuộc khởi nghĩa bị đàn áp đẫm máu. Các nhà lãnh đạo chủ chốt Nguyễn Thị Minh Khai, Nguyễn Văn Cừ, Phan Đăng Lưu, Võ Văn Tần bị bắt và xử bắn ngay tại trên mảnh đất Hóc Môn. Dù bị đàn áp, người dân Mười Tám Thôn Vườn Trầu vẫn kiên cường tiếp tục chiến đấu, góp công to lớn cho sư nghiệp giải phóng và thống nhất của đất nước.
Ngày nay Mười Tám Thôn Vườn Trầu đang nỗ lực xây dựng kinh tế, trở thành vùng trọng điểm chuyên canh rau của Thành phố Hồ Chí Minh. Đặc biệt trong thời gian gần đây Hóc Môn phát triển nhanh đàn bò sữa và cũng đang trở thành vùng trọng điểm vành đai bò sữa của thành phố. Một loạt hình hợp tác mới nhằm giúp nhau làm ăn, đóng góp cho sự phát triển của địa phương cũng đang hình thành tại đây. Đó là sự ra đời của các nhóm làm kinh tế gia đình-khuyến nông có mục đích hỗ tương giúp đỡ để áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào nông nghiệp, chăn nuôi, sưu tập vườn cây.
Danh xưng Mười Tám Thôn Vườn Trầu mãi mãi là ấn tượng về một địa danh giàu tính truyền thống và cách mạng.
Về Đầu Trang Go down
 
[size=18]LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ THỜI THƯỢNG CỔ ĐẾN HIỆN ĐẠI (tt) 8[/size]
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» [size=18]LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ THỜI THƯỢNG CỔ ĐẾN HIỆN ĐẠI (tt)7[/size]
» [size=18][b]LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ THỜI THƯỢNG CỔ ĐẾN HIỆN ĐẠI (tt)9[/b][/size]
» [size=18][color=red]LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ THỜI THƯỢNG CỔ ĐẾN HIỆN ĐẠI[/color][/size]
» LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ THỜI THƯỢNG CỔ ĐẾN HIỆN ĐẠI (tt)3
» LỊCH SỬ VIỆT NAM TỪ THỜI THƯỢNG CỔ ĐẾN HIỆN ĐẠI (tt)4

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Việt Nam Học-Văn Hóa Du Lịch :: Tài Liệu Và Kiến Thức Du Lịch :: Thư Viện EBook :: EBook Lịch Sử-
Chuyển đến