Việt Nam Học-Văn Hóa Du Lịch
Bạn có muốn phản ứng với tin nhắn này? Vui lòng đăng ký diễn đàn trong một vài cú nhấp chuột hoặc đăng nhập để tiếp tục.

Việt Nam Học-Văn Hóa Du Lịch

Việt Nam Học-Văn Hóa Du Lịch
 
Trang ChínhLatest imagesTìm kiếmĐăng kýĐăng Nhập

 

 GIAO TRINH MON NGHIEP VU HUONG DAN

Go down 
Tác giảThông điệp
aibiet
Thành Viên Năng Động
Thành Viên Năng Động
aibiet


Tổng số bài gửi : 13
Join date : 15/12/2009

GIAO TRINH MON NGHIEP VU HUONG DAN Empty
Bài gửiTiêu đề: GIAO TRINH MON NGHIEP VU HUONG DAN   GIAO TRINH MON NGHIEP VU HUONG DAN EmptyFri May 28, 2010 8:50 pm

GIAO TRINH MON NGHIEP VU HUONG
DAN







CHƯƠNG I: NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN


I. DU LỊCH VÀ VỊ TRÍ CỦA HOẠT
ĐỘNG HƯỚNG DẪN DU LỊCH





1.Lịch sử ra đời của hoạt động du
lịch:


Cũng như nhiều ngành khoa học, kỹ
thuật, nghệ thuật, sản xuất, ngành Du Lịch được hình thành rất sớm trong bối
cảnh lịch sử nhất định.





Thời cổ đại,các quốc gia chiếm
hữu nộ lệ với các nền văn minh rực rỡ ở Ai Cập, Lưỡng Hà, An Độ, Trung Hoa, Hy
Lạp, La Mã được hình thành… Con người đã có quá trình giao lưu kinh tế và văn
hoá. Nhu cầu tìm hiểu,tham quan và cả nghỉ ngơi đã xuất hiện trước hết ở giai
cấp quý tộc chủ nô rồi mới tới các thương gia,các nhà tu hành, nhà khoa học…
Các nhà Sử học cho rằng ,từ 5000 năm trước đây những chuyến vượt biển đã bắt
đầu từ Ai Cập.





Trongnhững chuyến đi ấy,người ta
kết hợp các mục đích,trong đócó cả mục đích du lịch – dù những khái niệm “ du
lịch”, “hoạt động du lịch” chưa ra đời. Theo những miêu tả được ghi trên tường
của đền thờ Deit El Bahari ở Luxor, vào năm 1490 trước Công Nguyên,vua Ai Cập
đã tổ chức một chuyến đi vì mục đích du lịch đến miền Punt (có thể là Sômali
ngày nay). Những người đi du lịch đó thực sự là những người dũng cảm trong điều
kiện di chuyển ở những chặng đường dài như vậy. Những người Sumers vùng
Lưỡng Hà đã sáng tạo ra tiền và dùng nó trong hoạt động vận chuyển và kinh
doanh cùng với bánh xe cách đây gần 6.000 năm được xem là cái mốc quan trọng
đánh dấu sự hình thành ngành du lịch. Các nhà khoa học Mỹ (Robert W.Mc’ Wtosh
và Charles R. Goeldner) cho rằng họ là người sáng lập Ngành Du Lịch của nhân
loại vì người ta có thể trả tiền cho việc vận chuyển và lưu trú.





Hàng nghìn năm trước Công Nguyên
cư dân ở Ai Cập, Lưỡng Hà, An Độ, Trung Quốc đã thực hiện những chuyến hành
hương tới các đền đài,chùa miếu, lăng tẩm… trong những lễ hội tôn giáo. Những chuyến
đi kéo dài nhiều ngày, thậm chí hàng tháng và cách xa nơi ở của họ đã dẫn tới
việc xuất hiện những nơi ăn ở dành cho người hành hương. Đó chính là những dịch
vụ sơ khai cho loại hình du lịch được gọi là du lịch tôn giáo,nói rộng ra là du
lịch văn hoá sau này. Một số nhà tư tưởng,nhà khoa học cũng đã thực hiện những
chuyến du lịch dài ngày trên lãnh thổ quốc gia rộng lớn như Khổng Tử (551 – 479
trước Công nguyên) đã đến nhiều vùng của Trung Hoa; như Herodote (480 – 420
trước Công nguyên) đã thực hiện những chuyến du lịch dài ngày từ Hy Lạp tới Ai
Cập, Ba Tư, Lưỡng Hà… Những chuyến đi trong thời cổ đại còn được tiếp tục và
ngày càng có nhiều người tham gia.





Từ thế kỷ IV trước Công Nguyên,
Hy Lạp đã phát triển cường thịnh. Việc đi đến các vùng đất ở Địa Trung Hải với
các mục đích nghỉ dưỡng, chữa bệnh, tham quan nghiên cứu ngày càng thu hút đông
đảo giai cấp chủ nô Hy Lạp.





Năm 776 trước Công nguyên, địa
hội thể thao Olimpic đã đầu tiên tổ chức tại Hi Lạp, thu hút nhiều người tham
dự đấu thể thao, (cả người thi đấu và người thưởng ngoạn). Do đó các cơ sở phục
vụ ăn, ở cho vận động viênvà khán giả cũng các dịch vụ khác đã nảy sinh xunng
quanh khu vực thi đấu. Loại hình du lịch công vụ, thể thao, tham quan nghiên
cứu đã xuất hiện và tồn tại lâu đời trên bán đảo này.





Đế quốc La Mã ra đời và phát
triển cực thịnh từ thế kỷ I trước Công nguyên đến thế kỷ I sau Công nguyên, đã
đánh dấu sự phát triển của các hoạt động du lịch ở Địa Trung Hải. Sự phát triển
của đường giao thông, việc xây dựng các công trình kiến trúc đồ sộ và hoành
tráng như các đền thờ, dinh thự, quảng trường ở các thành thị cổ đậi La Mã (
đặc biệt là đấu trường Colise’e, nhà tắm Cara Cala và đền Athe’na ) đã thôi
thúc con người từ nhiều vùng đổ về du ngoạn. Người La Mã đã lập ra một hệ thống
trạm dừng chân cho khách với các dịch vụ nghỉ trọ, ăn uống, bán cỏ khô cho ngựa
hay đổi xe, thay ngựa cho khách. Trong các trạm này,mà ngày nay có tên gọi là
các lữ quán (Hostelry) có cả những phòng đặc biệt dành cho quý tộc chủ nô,quan
chức và phòng bình thường cho các khách lữ hành.





Cũng từ bán đảo La Mã, nhiều
người đã đi du lịch tới các vùng Địa Trung Hải như thăm các Kim Tự Tháp ở Ai
Cập,vườn treo Babylon
ở Lưỡng Hà, các đền đài ở Hy Lạp… Những cơ sở chữa bệnh, nghỉ mát,nơi có các lễ
hội,thi đấu thể thao… dược lựa chọn, được giới thiệu và ở đó mọc lên các dinh
thự làm nơi nghỉ dưỡng,các dịch vụ giải trí, chữa bệnh và sử dụng thời gian
rãnh rỗi cho các hoạt động thể thao. Đó là những yếu tố cơ bản dẫn tới sự hình
thành các laọi hình du lịch và các khu du lịch ở Địa Trung Hải.





Vùng tiểu Á trên Địa Trung Hải
cũng là nơi diễn ra các hoạt động khá rầm rộ vào các thế kỷ IV – I trước Công
nguyên. Tài liệu thành văn cho thấy, năm 334 trước Công nguyên ở Ephesus (
thuộc Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay) vào dịp lễ hội đã có khoảng 700.000 khách du lịch
tập trung để thưởng thức các hoạt động vui chơi, biểu diễn. Đó là thời kỳ yên
ổn và thịnh vượng của các quốc gia cổ đại với những thành tựu văn minh rực rỡ.
Con người vừa có điều kiện thời gian và tiền bạc,vừa đảm bảo an toàn khi đi du
lịch.





Sự suy tàn các quốc gia cổ đại
trong đó có đế quốc La Mã từ thế kỷ IV, và từ khi đế quốc Tây La Mã diệt vong
(năm 476) kéo theo sự suy tàn của hoạt động du lịch. Người ta gọi đó là “ thời
kỳ đen tối” với các cuộc xung đột,thôn tính lẫn nhau của các quốc gia phong
kiến châu Au đang trong quá trình hình thành và phát triển thịnh đạt. Ngoài ra
cuộc hành quân chinh phạt, xâm lăng mà đáng kể nhất là các cuộc Thập tự chinh (
có 8 cuộc Thập tự chinh lớn từ phương Tây sang phương Đông : 1096 – 1270), chỉ
có các hành hương tôn giáo đến các thánh địa là đáng kể. Những chuyến du lịch
rất ít ỏi và cũng khá mạo hiểm. Ngoài sự mất an toàn,người ta còn gặp trở ngại
về sự xuống cấp của đường xá,của các dịch vụ du lịch và sự trở ngại lớn nhấtlà
sự “ ngăn sông cách chợ” mà chế độ phong kiến đã tạo ra ở cả phương Đông và
phương Tây. Sự ra đời các lãnh địa phong kiến rộng lớn thời Trung Cổ đã làm suy
sụp các hoạt động du lịch thịnh hành thời cổ đại. Tuy vậy,cũng có những nhà du
lịch mạo hiểm và dũng cảm với khao khát tìm hiểu thế giới rộng lớn. Vào năm
1271, một người Italia là Marco Polo đã từ Venise đi Trung Quốc và nhiều nơi ở
phương Đông. Ông cũng từng đặt chân lên thương cảng Đại Chiêm( này là Hội An –
Quảng Nam,Việt Nam) Marco Polo
trở về Châu Au năm 1292 và viết cuốn sách “Marco Polo du ký”. Cuốn sách đã gợi
lòng ham hiểu biết của nhiều thế hệ người Châu Au sau này.





Cuối thế lỷ XV, đầu thế kỷ XVI
những hiểu biết địa lý,thiên văn, hải dương, và kỹ thuật đi biển đã giúp chon
người có những phát kiến địa lý lớn. Từ 1492 đến 1504, Christophe Colombo đã
tiến hành 4 cuộc hành trình thám hiểm sang một lục địa mới mà sau này được gọi
là Châu Mỹ. Đó là một phát kiến địa lý lừng danh. Phát kiến lớn tiếp theo là
chuyến đi vòng quanh Châu Phi,vượt qua An Độ Dương đến An Độ ( năm 1497 – 1499)
của Vasco de Gamma người Bồ Đào Nha. Chuyến đi vòng quanh thế giới trên biển
của đoàn thám hiểm do Fernand Majellan đẫn đầu(trong những năm 1519 – 1522) là
phát kiến rất quan trọng,có ý nghĩa nhiều mặt. Những chuyến đi ấy dẫu không
phải vì mục đích du lịch, những trên ý nghĩa nhất định,đã mở hướng cho hoạt
động lữ hành quốc tế trên phương vận tải thuỷ. Mặc khác, những chuyến đi ấy có
thể coi là những chuyến đi thám hiểm,nghiên cứu lớn của con người với thế giới
rộng lớn.





Từ thế kỷ XVI trở đi, những
chuyến lữ hành của con người đến các châu lục trở nên phổ biến hơn. Các thương
gia, nhà ngoại giao,nhà khoa học,nhà truyền giáo… từ châu Au đến châu Á, châu
Phi,châu Mỹ… đã được coi là những “chuyến lữ hành vĩ đại” ,góp phần giao lưu
giữa các nền văn hoá thế giới và dĩ nhiên tăng cường sự hiểu biết của con người
về vùng đất lạ, thoả mãn tâm lý “ chuộng lạ” của du khách, mà đó là môt trong
những lý do chủ yếu để người ta đi du lịch. Tất nhiên, trong lịch sử cũng có
những chuyến lữ hành từ châu Á,châu Mỹ tới các châu lục khác làm cho hoạt động
du lịch ngày càng mở rộng hơn như một thực tế đòi hỏi.





Các cuộc cách mạng tư sản,bắt đầu
từ cách mạng tư sản Netherland (1564 – 1609) đến cách mạng tư sản Anh (1642 –
1660), cách mạng tư sản Mỹ(1776 – 1783), cách mạng tư sản Pháp( 1789 – 1794)…
đã mở ra chocon người sự giao lưu mới với thiết chế tự do tư sản. Nhu cầu tích
tụ tư bản thúc đẩy giai cấp tư sản cho xây dựng mạng lưới giao thông lớn cùng
với các phương tiện vận chuyện ngày càng hiện đại và mở rộng các dịch vụ ở
nhiều nơi trên thế giới. Phương tiện thông tin liên lạc cũng được mở rộng phục
vụ cho sản xuất,kinh doanh và cả cướp bóc, xâm lược. Nhưng, những cơ sở hạ tầng
đó về khách quan cũng tạo ra sự thuận lợi cho các chuyến lữ hành xuyên quốc
gia. Nhiều người có nhu cầu tham quan, nghỉ dưỡng, chữa bệnh, thể thao… ở những
vùng có khí hậu trong lành, phù hợp, có điều kiện thiên nhiên lý tưởng hay có
các tài nguyên nhân văn độc đáo hấp dẫn. Từ đó, một số trung tâm du lịch, khu
du lịch được hình thành. Nếu xưa kia, người ta có xu thế đi du lịch tới các kỳ
quan thế giới: Kim Tự Tháp ở Ai Cập, vườn treo Babylon; tượng thần Zeus ở
Olempia – Hy Lạp; tượng thần Helios trên đài Phodes – Hy Lạp; đền thờ nữ thần
Artemis ở Ephese (Hy Lạp,nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ); lăng mộ Mausolus ở Halicarnasse
( Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay); ngọn hải đăng và thư viện ở Alexandria ( Ai Cập) thì nay
đã mở ra nhiều nơi khác với rừng, bờ biển đẹp và suối khoáng… các loại hình du
lịch dần dận được hình thành từ các trung tâm du lịch quốc gia và quốc tế như
Roma (Italia), Paris, Nice (Pháp),Carlo (Séc), Baden(Đức). Những nơi này thu
hút hàng vạn khách trong và ngoài quốc gia. Du lịch quốc tế bắt đầu có xu hướng
gia tăng trong thế kỷ XVIII, đặc biệt là loại du lịch có tên gọi “Grand Tour”
xuất hiện ở Châu Au cuối thế kỷ XVIII. Đó là các chuyến du lịch của các sinh
viên đại học sau khi tốt nghiệp đã đến các nước để kiểm chứng thực tế trong 2
tới 3 năm rồi trở về áp dụng trong các công ty, xí nghiệp của mình.





Lượng hành khách,thời gian du
lịch của khách và các dịch vụ gia tăng đã dẫn tới sự hình thành thị trường du
lịch. Hoạt động du lịch đã thành hiện tượng từ cuối thế kỷ XIX. Song cho đến
thế kỷ XX, nói chung khách du lịch chủ yếu tự tổ chức các cuộc hành trình chứ
chưa hình thành các tổ chức phục vụ cho các cuộc du lịch của khách.





Sự xuất hiện của phương tiện tàu
hoả cũng dẫn tới loại dịch vụ đặt chỗ. Vào năm 1922, một người Anh là Robert
Smart, nhân viên tàu hoả đã đặt chỗ khách đi tới các cảng ở nước Anh.


Thomas Cook,một nhà du lịch và
nhà kinh tế Anh đã sớm nhìn ra yêu cầu cần có các tổ chức du lịch. Năm 1841,
ông đã tổ chức một chuyến tham quan đặc biệt trên tàu hoả từ Leicester đến
Lafburoy (dài 12 dặm) cho 570 khách đi dự hội nghị. Giá dịch vụ vận chuyển là
một Sterling/một hành khách. Hành khách (sau này được gọi là những du khách
tham gia vào loại du lịch công vụ) trong cuộc hành trình được phục vụ văn nghệ,
nước chè và các món ăn nhẹ. Chuyến đi rất thành công và mở ra dịch vụ các cuộc
lữ hành cho du khách. Sau Thomas Cook, nhiều người trên thế giới cũng bắt chước
ông trên phương tiện tàu hoả. Năm 1812, Thomas Cook tổ chức văn phòng du lịch
đầu tiên ở Anh (và cũng là văn phòng đầu tiên có tính chuyên nghiệp trên thế
giới) với chức năng tổ chức cho công dân Anh đi du lịch khắp nơi. Đây là một
mốc quan trọng đánh dấu sự hình thành một loại tổ chức kinh doanh du lịch rất
quan trọng: các hãng du lịch hay còn được gọi là các hãng lữ hành (Travel
Agency, Agence de voyage, Réieburo…) làm cầu nối giữa khách du lịch và các bộ
phận phục vụ du lịch để hoạt động du lịch thuận lợi và nhịp nhàng. Cũng từ
đây,ngành công nghiệp lữ hành (Travel Industry) bắt đầu manh nha.





Từ nửa thế kỷ XIX, đặc biệt là
vào 30 năm cuối,du lịch có điều kiện phát triển hơn do Châu Au và thế giới nói
chung ở trong hoà bình,và các nước tư bản đang trong quá trình tích tụ tư bản
để chuyển sang một giai đoạn mới. Mặc khác thành tựu khoa học kỹ thuật cũng tạo
những điều kiện vật chất cho du lịch được đẩy mạnh. Các phương tiện du lịch
đường thuỷ, tàu hoả đưa số lượng khách tăng hằng năm và bắt đầu xuất hiện loại
du lịch bằng xe đạp và đi bộ. Các khách sạn cũng mọc lên nhiều hơn,đặc biệt ở
những vùng được quy hoạch (ở Địa Trung Hải, ở một số nơi tại Thuỵ Sỹ,ở Nice và
Cane tại Pháp…). Theo những số liệu chưa chính thức, chỉ năm 1896, các khách
sạn tại một số thành phố lớn châu Au đã đón và phục vụ từ 3 đến 5 triệu khách
du lịch các loại.





Vào những năm vắt ngang hai thế
kỷ XIX và XX,du lịch bằng ôtô xuất hiện cùng với việc xây dựng đường ôtô và sự
phát triển các phương tiện thông tin liên lạc. Người đi du lịch chủ yếu vẫn là
các quý tộc, quan chức, thương gia và các tầng lớp tư sản giàu có và tập trung
nhiều vào loại hình du lịch nghỉ dưỡng,giải trí…





Sau chiến tranh thế giới thứ
nhất,du lịch tiếp tục phát triển với việc sử dụng phương tiện vận chuyện bằng
máy bay. Năm 1925, hãng hàng không Đức Lufthansa đã hoàn thành chuyến bay dài
118 dặm và mở ra cho du lịch một hướng vận chuyển khách thuận lợi. Một số nước
châu Âu cũng xây dựng và tổ chức các hãng du lịch quốc tế nhằm thu ngoại tệ để
khôi phục và phát triển kinh tế. Cho tới cuối những năm 30,du lịch phát triển
rất mạnh. Theo A. Cofechec trong cuốn “Lịch sử phát triển du lịch – Bundapest –
1966”, số người tham gia du lịch ở châu Âu và châu Mỹ khoảng từ 50 – 60 triệu





Chiến tranh thế giới thứ hai làm
cho hoạt động du lịch gần như ngừng trệ.





Sau những năm khôi phục nền kinh
tế xội hội bị tàn phá,từ thập kỷ sáu mươi du lịch đã dần dần phát triển với tốc
độ nhanh. Sự phát triển của kinh tế thế giới đã tạo điều kiện cho nhân loại mở
rộng và tăng cường các hoạt động du lịch. Đồng thời, các dịch vụ du lịch cũng
ngày càng mở rộng và nâng cao về quy môvà chất lượng. Hàng loạt hãng du lịch ra
đời ở các quốc gia, các châu lục trên toàn thế giới với sự liên kết ngày càng
đa dạng. Ngày 02/01/1975 Tổ Chức Du Lịch Thế Giới (WTO) đã được thành lập,và là
tổ chức quốc tế về du lịch lớn nhất liên kết các hoạt động du lịch của hầu hết
các quốc gia trên thế giới.





Trong gần hai thập kỷ qua,cách
mạng khoa học kỹ thuật đã đưa tới những thành tựu kỳ diệu cho nhân loại. Việc
cơ giới hoá, tự động hoá kỹ thuật tin học ngày càng phát triển đã đem lại năng
xuất lao động tăng cao, mức sống ngày càng tốt hơn và thời gian nhàn rỗi của
người lao động cũng nhiều hơn. Do đó,các chuyến du lịch cũng tăng lên rất nhanh
cả về dòng du khách cũng như độ dài của chuyến du lịch cùng với các dịch vụ du
lịch ngày càng hoàn thiện. Giai đoạn này được một số nhà nghiên cứu gọi là giai
đoạn “bành trướng du lịch”. Du lịch và hoạt động kinh doanh du lịch đã và đang
trở thành hiện tượng kinh tế – xã hội phổ biến, thành ngành kinh tế mũi nhọn
của một số nước, ngành “ công nghiệp không khói”.





Lượng khách du lịch tăng lên
nhanh chóng. Năm 1950, cả thế giới có 25 triệu lượt khách du lịch, đến năm 1995
đã có 567 triệu lượt khách. Các nhà kinh tế dự báo đến năm 2000 lượng khách du
lịch sẽ tăng tới khoảng 600 triệu lượt.





Cùng với việc tăng lượng khách,
nguồn ngoại tệ thu được từ du lịch cũng tăng lên hàng trăm lần từ sau chiến
tranh thế giới thế 2 đến nay. Điều đó cho thấy nhu cầu du lcịh và khả năng
thanh toán của khách ngày càng cao và các dịch vụ du lịch cũng nagỳ càng đa
dạng hoá, đáp ứng đòi hỏi của sự phát triển du lịch nói riêng và sự phát triển
kinh tế – xã hội nói chung.





Cùng với việc phát triển du lịch,
các tổ chức quốc tế và khu vực về du lịch và dịch vụ du lịch cũng ra đời, đã
tăng cường khả năng liên kết của ngành kinh tế đặc biệt này. Xu hướng quốc tế
hoá du lịch đòi hỏi sự phối hợp giữa các hãng, các công ty du lịch trên phạm vi
toàn thế giới.





Hiện nay, trên thế giới diễn ra
những thay đổi quan trọng như hướng đi của các dòng du khách,mà nét nổi bật là
xu hướng tới các nước đang phát triển và mới phát triển với loại hình du lịch
văn hoá và du lịch môi trường sinh thái. Các nước ở vùng châu Á – Thái Bình
Dương đang là những nước giữa vai trò du lịch quốc tế chủ động. Mặc khác, cơ
cấu chi tiêu của khách du lịch cũng thuy đổi theo từng giai đoạn, mà nét nổi
bật mà tỷ trọng chi tiêu của khách du lịch trong các dịch vụ cơ bản (lưu
trú,vận chuyển, ăn uống) có xu hướng giảm trong khi tỷ trọng chi tiêu của khách
cho các dịch vụ bổ sung(mua sắm, giải trí, tham quan…) có xu hướng tăng lên.
Một xu hướng nữa là việc sử dụng các dịch vụ du lịch trọn gói ngày càng ít hơn
cùng với việc bớt giảm các thủ tục về xuất nhập khẩu hải quan. Khách du lịch
ngày càng chủ động hơn trong việc lựa chon dịch vụ cho mình,kể cả dịch vụ hướng
dẫn du lịch.





Ở Việt Nam,đi du lịch cũng là nhu
cầu từ xa xưa,và các thế hệ người Việt Nam cũng đã có những chuyến du lịch nổi
danh trong lịch sử. Khách du lịch từ đất Việt ra đi chủ yếu thuộc các tầng lớp
trên hoặc thương gia, nhà khoa học, nhà tu hành… Mặc khác, nhiều khách du lịch
nước ngoài cũng có làm những chuyến lữ hành đến Việt Nam. Tuy vậy ngành du lịch
Việt Nam hiện nay có tuổi chưa phải cao nếu kể từ ngày thành lập vào 9/7/1960
theo Nghị định 26/CP của Chính Phủ. Từ Công Ty Du Lịch Việt Nam ngày ấy đến
Tổng cục Du Lịch Việt Nam bề thế hiện nay, ngành du lịch Việt Nam đã trải qua
bao thăng trầm và đã từng bước trưởng thành. Trong thời kỳ đổi mới và mở cửa
nền kinh tế – xã hội, du lịch Việt Nam cũng có những đóng góp xứng đáng vào sự
phát triển nhiều mặt của đất nước. Hiện nay cả nước có tới hơn 800 doanh nghiệp
thuộc mọi thành phần kinh tế (không kể các hộ tư nhân) thamgia vào việc kinh
doanh khách sạn và các dịch vụ du lịch, có hơn 254 công ty lữ hành nội địa và
78 công ty lữ hành quốc tế. Riêng trong lĩnh vực hướng dẫn du lịch,Tổng cục Du
Lịch Việt Nam đã cấp thẻ hướng dẫn viên du lịch cho gần 3000 người. Các đơn vị
kinh doanh du lịch của Việt Nam đã có mối liên kết,hợp tác với hơn 1000 hãng
công ty Du Lịch từ 60 quốc gia và lãnh thổ trên thế giới. Ngành Du Lịch Việt
Nam là thành viên của tổ chức Du Lịch Thế Giới ( WTO) từ tháng 9/1981, thành
viên của Hiệp Hôi Du Lịch châu Á – Thái Bình Dương (PATA) từ 1989, thành viên
của Hiệp Hội Du Lịch Đông Nam Á (ASEANTA) từ 1995…





Trong định hướng phát triển kinh
tế – xã hội của Việt Nam,du lịch được coi là một trong những ngành có tầm quan
trọng và có ý nghĩa to lớn. Việt Nam vồn giàu tài nguyên du lịch và đang từng
bước khai thác và bảo vệ nguồn tài nguyên ấy. Loại hình du lịch văn hoá, du
lịch môi trường sinh thái được xác định là quna trọng nhất trong phát triển du
lịch Việt Nam, sức hấp dẫn và khả năng thực hiện các hoạt động du lịch theo định
hướng ấy ngày nay đang được quan tâm.





Với mục tiêu vào năm 2000,Việt
Nam sẽ đón tiếp và phục vụ từ 3,5 đến 3,8 triệu lượt khách du lịch quốc tế và
đến năm 2010 sẽ là 9 triệu lượt khách quốc tế; số khách du lịch nội địa sẽ là
11 triệu lượt vào năm 2000 và 25 triệu lượt vào năm 2010. Để thực hiện được mục
tiêu ấy,Việt Nam phải nổ lực rất lớn. Dự kiến với lượng khách ấy,doanh thu từ
du lịch quốc tế sẽ đạt 2,6 tỷ USD vào năm 2000,và 11,8 tỷ USD vào năm 2010. Đó
là con số có ý nghĩa khẳng định thế mạnh của du lịch trong tương lai. Những
biện pháp để thúc đẩy sự phát triển của du lịch Việt Nam đang được đặt ra vừa
cấp thiết vừa lâu dài, nhằm cụ thể hoá đường lối của Đảng được đề ra trong Đại
hội lần thứ VIII là:





“ Triển khai thực hiện quy hoạch
tổng thể du lịch Việt Nam tương xứng với tiềm năng du lịch của đất nước theo
hướng du lịch văn hoá, sinh thái môi trường. Xây dựng các chương trình và điểm
du lịch hấp dẫn về văn hoá, di tích lịch sử và khu danh lam thắng cảnh. Huy
động nguồn nhân lực của nhân dân tham gia kinh doanh du lịch, ưu tiên xây dựng
cơ sở hạ tầng ở những kgu vực du lịch tập trung,ở các trung tâm lớn. Nâng cao
trình độ văn hoá và chất lượng dịch vụ với các loại khách khác nhau. Đẩy mạnh
việc huy động vốn trong nước đầu từ vào khách sạn. Cổ phẩn hoá một số khách sạn
hiện có để huy động các nguồn vốn vào việc đầu tư, cải tạo nâng cấp,liên doanh
với nước ngoài, xây dựng các khu du lịch và các khách sạn lớn , chất lượng,đòi
hỏi nhiều vốn. Chuyển các nhà nghỉ, nhà khách từ cơ chế bao cấp sang kinh doanh
khách sạn và du lịch”





Thực hiện đường lối của Đảng, Nhà
nước ta đã có những văn bản chỉ đạo hoạt động du lịch khoa học, thực tiễn và có
hiệu quả từ đại hội Đảng lần thứ VIII đến nay. Pháp lệnh du lịch Việt Nam được
ban hành ngày 20/2/99 đã đi vào cuộc sống, tạo điều kiện thuận lợi cho du lịch
Việt Nam trong những năm tới mà trước tiên là những sự kiện du lịch Việt Nam
năm 2000. Với mục tiêu: Việt Nam – điểm đến của thiên niên kỷ mới,du lịch Việt
Nam đang chuẩn bị những điều kiện cả trước mắt cũng như lâu dài để đón và phục
vụ khách du lịch gần xa. Một trong những điều kiện ấy là đào tạo nhân lực cho
hoạt động du lịch, trong đó có đào tạo hướng dẫn viên – những người được ví như
sứ giả, người đại diện đón và phục vụ khách du lịch.





Từ đường lối ấy và từ những biện
pháp thích hợp,du lịch Việt Nam đnag chuyển mình,đón kịp xu thế quốc tế và sự
phát triển chung của đất nước. Việc đào tạo nguồn nhân lực cho ngành du lịch
đang là đòi hỏi khách quan trong đó có việc trang bị kiến thức về nghiệp vụ
hướng dẫn du lịch.


2. Vị trí của hoạt động hướng dẫn
du lịch





Trong lịch sử ra đời, tồn tại và
phát triển của du lịch,buổi ban đầu, hướng dẫn du lịch chưa hình thành đồng
thời. Khách du lịch chủ yếu tự tìm hiểu để thoả mãn những nhu cầu của chuyến đi
theo mục tiêu đã định. Sau đó, thường là tại các điểm du lịch những người địa
phương đảm nhiệm vai trò giới thiệu cho khách từ những hiểu biết của mình. Cùng
với thời gian, dòng du khách lớn lên kéo theo sự đa dạng hoá các hoạt động kinh
doanh dịch vụ du lịch. Hoạt động hướng dẫn du lịch cũng ra đời,ngày càng có vị
trí quan trọng và cần thiết trong kinh doanh du lịch nói chung. Hoạt động này
từ chỗ là hoạt động kết hợp của những chủ dịch vụ,những nhà khoa học hoặc những
người có hiểu biết cụthể về một hay nhiều lĩnh vực nhất định, về một hay nhiều
đối tượng tham quan tại điểm du lịch nhất định được thuê mướn đến chỗ trở thành
hoạt động đặc trưng của ngành du lịch. Hướng dẫn viên du lịch ra đời từ đòi hỏi
khách quan, đòi hỏi nghề nghiệp, nhằm đáp ứng các nhu cầu hiểu biết của du khách.
Thông thường, hướng dẫn du lịch để thoả mãn những nhu cầu chủ yếu của khách du
lịch,mà vì những nhu cầu đó họ sử dụng thời gian rảnh rỗi và tiền bạc cho nó.





Chẳng hạn, từ vùng này sang vùng
khác trong một quốc gia hày từ quốc gia này tới một hay nhiều quốc gia
khác,khách du lịch hầu như chưa có hiểu biết gì hay hiểu biết sơ sài qua giới
thiệu của người khác, qua quảng cáo, qua sách báo…về những đối tượng muốn tìm
hiểu,những nhu cần được thoả mãn. Hoạt động hướng dẫn du lịch chính là đáp ứng
những nhu cầu ấy một cách trực tiếp, sinh động và đa dạng trong chuyến du lịch
của khách.





Hoạt động hướng dẫn du lịch còn
góp phần rất quan trọng vào kinh doanh du lịch nói chung. Thông qua hoạt động
hướng dẫn, các dịch vụ du lịch cơ bản như dịch vụ lưu trú, dịch vụ ăn uống,
dịch vụ vận chuyển được thực hiện chu đáo hơn, phong phú hơn do có sự phối hợp
của hướng dẫn viên. Những nhu cầu của khách du lịch về các dịch vụ này thường
được đáp ứng chính xác, nhanh chóng, đầy đủ hơn. Ngoài ra, từ hoạt động hướng
dẫn du lịch, khách du lịch, cũng góp phần làm cho các dịch vụ bổ sung thêm sôi
động. Bởi lẽ, qua các hướng dẫn viên du lịch các cơ sở kinh doanh du lịch sẽ
nắm bắt thị hiếu, tâm lý, đặc tính và cả tình trạng sức khoẻ…của khách du lịch
để kịp thời có những điều chỉnh đáp ứng tốt hơn cho khách và do đó, dịch vụ du
lịch sẽ phát triển hơn, doanh thu sẽ cao hơn.





Các tổ chức kinh doanh du lịch
hiện nay nói chung đều có hoạt động hướng dẫn du lịch. Các tổ chức kinh doanh
lữ hành quốc tế và lữ hành nội địa càng cần thiết có hoạt động hướng dẫn du
lịch. Việc thiết kế tours, bán tours, quảng cáo,tiếp thị mô giới trung gian…
phải gắn với yêu cầu hướng dẫn du lịch. Vì vậy, hoạt động hướng dẫn du lịch
được thực hiện tốt hay không sẽ góp phần rất cơ bản vào việc bán tours, vào kinh
doanh du lịch tại các tổ chức này và nói chung vào các hoạt động du lịch.





Hoạt động hướng dẫn du lịch không
chỉ thoả mãn những nhu cầu của khách du lịch theo mục đích của chuyến du
lịch,của loại hình du lịch họ lựa chọn, của những đối tượng mà họ cần tìm hiểu,
cần sử dụng mà còn góp phần giải quyết những vấn đề phát sinh trong quá trình
du lịch của họ. Có rất nhiều vấn đề với nhiều tình huống khác nhau xảy ra trong
quá trình thực hiện các chuyến du lịch của khách tại nơi làm thủ tục xuất nhập
cảnh,nơi lưu trú,nơi nghỉ dưỡng,chữa bệnh, lúc ăn uống, trên phương tiên vận
chuyển qua các vùng, tại điểm du lịch…mà khách du lịch cần tới hoạt động hướng
dẫn giúp khách. Và cũng chính từ những đòi hỏi đó – vốn ngày càng trở nên quen
thuộc trong du lịch – hoạt động hướng dẫn du lịch càng có vị trí không thể
thiếu trong toàn bộ hoạt động kinh doanh du lịch.





Tóm lại, hoạt động hướng dẫn du
lịch ra đời sau quá trình tham quan du lịch trong lịch sử của ngành nhưng đã có
vị trí quan trọng trong hoạt động kinh doanh du lịch. Hoạt động hướng dẫn du
lịch đã và luôn là một loại dịch vụ rất cơ bản và là dịch vụ đặc trưng của du
lịch. Hoạt động hướng dẫn du lịch là một trong những nhân tố thúc đẩy sự phát
triển của du lịch và góp phần to lớn vào doanh thu từ du lịch.





Với sự bùng nổ của thông tin và
sự phát triển mạnh mẽ của kỹ thuật tin học,hoạt động hướng dẫn du lịch có được
sự trợ giúp của nhiều yếu tố nên thuận lợi hơn, đặc biệt là các thông tin tới
khách du lịch. Song, hoạt động hướng dẫn du lịch vẫn rất cần thiết và đòi hỏi
nghiệp vụ hướng dẫn ngày càng cao hơn.
Về Đầu Trang Go down
 
GIAO TRINH MON NGHIEP VU HUONG DAN
Về Đầu Trang 
Trang 1 trong tổng số 1 trang
 Similar topics
-
» cac tinh huong giao tiep trong du lich
» Những phương pháp chung hướng dẫn du lịch
» we huong minh do
» Tôi - Thằng hướng dẫn
» Làm thủ tục hải quan – giao nhận XNK giá rẻ

Permissions in this forum:Bạn không có quyền trả lời bài viết
Việt Nam Học-Văn Hóa Du Lịch :: Nghiệp Vụ Và Kỹ Năng Du Lịch :: Nghiệp Vụ Hướng Dẫn Viên Du Lịch-
Chuyển đến